Trang

Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2013

Nhập Đề

Mục I. Tóm lược 

Nhập đề gồm có 9 số, và có thể chia làm hai phần: phần đầu (số 1-7) trình bày ý nghĩa của “tình yêu trong chân lý” trong giáo huấn xã hội của Giáo hội; phần thứ hai (số 8-9), áp dụng cho thông điệp Populorum progressio. 

1. Tình yêu trong chân lý là động lực chính yếu của sự phát triển đích thực của mỗi người và của toàn thể nhân loại. 

a. Tình yêu thúc đẩy người ta dấn thân cho công lý và hòa bình. 

b. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa là Tình yêu vĩnh hằng và Chân lý tuyệt đối. 

c. Thiên Chúa có một kế hoạch cho mỗi người, trong đó chúng ta tìm thấy điều chân thật và tốt lành cho mình. 

d. Mỗi người chúng ta mang trong mình khuynh hướng đi tìm chân lý và tình yêu. Bản năng này được thanh luyện và giải thoát nhờ Đức Giêsu Kitô (mạc khải). 

2. Tình yêu (bác ái) là trung tâm của đạo lý xã hội của Giáo hội: mọi trách nhiệm trong các tương quan cá nhân và xã hội bắt nguồn từ đó. 

Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu là quà tặng lớn nhất của Thiên Chúa ban cho con người. 

Tình yêu định hướng cho trách nhiệm luân lý trong tất cả mọi lãnh vực; tình yêu mang lại tín lực cho chân lý trong một khung cảnh xã hội và văn hóa muốn tương-đối-hóa chân lý. 

3. Tình yêu gắn liền với chân lý là sự diễn đạt tính nhân bản trong tất cả mọi tương quan riêng tư và công cộng. Nếu thiếu chân lý thì tình yêu trở thành cảm xúc. 

4. Chân lý (logos) giúp cho cuộc đối thoại, truyền thông, hiệp thông trở nên khả thi. Trong khung cảnh xã hội và văn hóa hiện nay mang khuynh hướng tương-đối-hóa chân lý, thì sự thực hiện bác ái trong chân lý sẽ giúp cho mọi người hiểu rằng việc chấp nhận các giá trị của Kitô giáo không những là hữu ích nhưng còn là thiết yếu cho sự xây dựng một xã hội tốt đẹp và cho sự phát triển toàn diện con người. 

5. Đức mến là tình yêu được đón nhận và trao ban: đón nhận từ Thiên Chúa, trao ban cho tha nhân trong những mạng lưới của bác ái. 

Giáo huấn xã hội của Giáo hội và truyền thống: chân lý của đức tin và của lý trí được yêu mến và làm chứng trong những biến cố thăng trầm của lịch sử, tìm ra những giải đáp cho những vấn đề xã hội - kinh tế trầm trọng đang đè nặng lên nhân loại trong xã hội toàn cầu hóa hiện nay. 

6. Caritas in veritate là một nguyên tắc tác động trong những tiêu chuẩn chỉ huy hành động luân lý. Hai thí dụ: công bằng và công ích. 

a) Công bằng. Công bằng không thể tách rời khỏi tình yêu; công bằng được gói ghém trong tình yêu. Công bằng là con đường đầu tiên của tình yêu, mức tối thiểu của tình yêu. Tuy nhiên, tình yêu vượt quá công bằng, bổ túc cho công bằng nhờ cái lý lẽ của trao tặng và tha thứ. 

b) Công ích (số 7). Công ích (công thiện) là điều thiện gắn liền với guồng máy các định chế điều hành xã hội về pháp lý, dân sự, chính trị và văn hóa. Nhờ công ích (công thiện) mà mỗi phần tử theo đuổi được cái tốt (thiện) riêng của mình. 

- Việc cố gắng bảo đảm công ích tương ứng với những nhu cầu của tha nhân là ơn gọi của tất cả mọi người, tùy theo mức độ ảnh hưởng của mình. 
- Đây là con đường bác ái của “chính trị”, không kém giá trị gì so với việc bác ái dành cho tha nhân. 
- Trong một thế giới toàn-cầu-hóa, công ích mà chúng ta nhằm đến cũng mang tính toàn cầu, bao trùm hết mọi dân tộc và quốc gia hướng đến hợp nhất và hòa bình. 

8. Trong thông điệp Populorum progressio, đức Phaolô VI đã thúc bách chúng ta hãy xúc tiến sự phát triển với nhiệt tình của tình yêu và sự khôn ngoan của chân lý: hồng ân của tình yêu Chúa làm cho chúng ta có khả năng hy vọng sự phát triển cho hết tất cả mọi người. 

Như đức thánh cha Gioan Phaolô II đã làm trong thông điệp Sollicitudo rei socialis, thông điệp này (CIV) ôn lại những giáo huấn về sự phát triển con người toàn diện và áp dụng chúng vào thời nay. 

9. Mối nguy của thời đại chúng ta là sự lệ thuộc giữa các dân tộc và quốc gia với nhau không được nhìn theo sự tương tác của các lương tâm và trí tuệ để cỗ vũ sự phát triển thực sự nhân bản. Những sự tiến bộ kỹ thuật và các liên lạc hữu dụng không thể thực hiện sự phát triển con người. 

Sứ mạng của Giáo hội là đi tìm sự thật từ hết mọi nguồn mạch, kết hợp nó và thích nghi nó với những bối cảnh mới của cuộc sống của các dân tộc và quốc gia. Đây là một sự phục vụ chân lý, chân lý mang lại cho chúng ta sự tự do đích thực. 

Mục II. Vài nhận xét 

Dĩ nhiên trong bài nhập đề, trước hết cần giới thiệu thông điệp Caritas in veritate (viết tắt CIV): lý do, ý nghĩa, nội dung của nó. Nhưng vì đã có nhiều người viết về vấn đề này rồi, có nên chúng ta bỏ qua. Thiết tưởng, điều cần nhấn mạnh là tìm hiểu những tư tưởng thần học, đặc biệt là vài “từ khóa” để hiểu thông điệp. Các nhà chuyên môn đều nhận thấy rằng trong văn kiện này, có những đoạn mang tính thần học do chính Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết (số 1-9; 52; 78-79); những phần còn lại là do những chuyên viên về kinh tế và xã hội viết. 

Chúng ta sẽ chú ý cách riêng đến ba “từ khóa”: 1/ Caritas. 2/ Veritas. 3/ Caritas in veritate. 

I. Caritas 

Nhiều người đã vội dịch tựa đề của thông điệp là “Bác ái trong chân lý”. Điều này dễ hiểu, bởi vì chúng ta đã quen với tổ chức Caritas, chuyên lo công tác cứu trợ từ thiện. Thế nhưng caritas mang ý nghĩa rộng hơn nhiều, bởi vì ám chỉ chính bản tính của Thiên Chúa,- Deus caritas est -, được Đức Thánh Cha quảng diễn trong thông điệp đầu tiên (25/12/2005). Tông huấn hậu thượng đồng giám mục về bí tích Thánh Thể cũng mang tựa đề là Sacramentum caritatis (22/2/2007) mà ta không thể dịch là “bí tích bác ái”! 

Thực ra, trong tiếng Việt, tuy caritas thường được dịch là “bác ái”, nhưng khi bước sang lãnh vực các nhân đức đối thần, thì caritas được dịch là “đức mến” (Tin - Cậy - Mến), mặc dầu đoạn văn nổi tiếng của chương 13 thư thứ nhất gửi Corintô thường được đặt tên là “bài ca đức ái”; đến khi dịch câu văn “Deus caritas est” thì phải viết là “Thiên Chúa là tình yêu”. Như vậy, cùng một từ caritas nhưng phải tuỳ theo mạch văn mà dịch: bác ái, đức mến, đức ái, tình yêu. 

Nhận xét vừa rồi cho thấy rằng caritas mang nhiều bộ mặt, và từ đó “thần học về caritas” cũng gồm nhiều khía cạnh. Thông thường, caritas được bàn trong thần học luân lý như là một nhân đức đối thần; nhưng trong thông điệp Deus caritas est, đức thánh cha Bênêđictô XVI đã cho thấy rằng tiên vàn caritas là một chuyện “tín lý” bởi vì liên quan đến việc mạc khải bản tính Thiên Chúa; hậu nhiên, nó cũng định nghĩa bản chất Kitô giáo hoặc Hội thánh và định hướng toàn thể hoạt động của Hội thánh. Chúng ta hãy ôn lại vài khía cạnh thần học của caritas. 

Caritas là gì? Theo nguyên ngữ latinh, caritas gốc bởi tính từ carus vừa có nghĩa là quý mến vừa có nghĩa là đắt đỏ (tương tự như cher trong tiếng Pháp). Tuy nhiên, bản dịch Tân ước đã dùng từ này để dịch từ agape trong nguyên bản Hy lạp. Nên biết rằng trong tiếng Hy-lạp có nhiều từ ngữ để nói đến “yêu” (cũng tương tự như trong tiếng Việt1), đặc biệt là eros và philia. Điều đáng nói là agape là một thuật ngữ do các tác giả Tân ước đã tạo ra nhằm diễn tả nét đặc trưng của Kitô giáo, bởi vì những từ eros và philia không thích hợp với Thiên Chúa2: agape được dùng 117 lần trong Tân ước, nhưng chỉ gặp thấy 1 lần trong văn chương Hy-lạp (Oxyrhynchus Papyri, thế kỷ II sau Công nguyên). 

Tân ước muốn nói gì khi tuyên bố Deus caritas est? 

A. Thiên Chúa là tình yêu 

Ngôn ngữ nào cũng có những kiểu nói hàm hồ. Lời khẳng định của Tân ước “Thiên Chúa là tình yêu” có thể bị lật ngược lại thành “tình yêu là Thiên Chúa”. Một cách tương tự như vậy, “Tình yêu Thiên Chúa” vừa có thể hiểu là “Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người”, hoặc “Tình yêu của con người đối với Thiên Chúa”. 

Các nhà tu đức (và giảng thuyết) thường nhắc nhớ bổn phận của con người phải yêu mến Chúa, nhưng có lẽ ít khi nêu bật tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho con người, và lại càng không dám đụng đến tình yêu nơi chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, cần phải khởi đầu từ chỗ này. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho thụ tạo (và nhân loại) thì đến sau Tình yêu nội tại của Thiên Chúa: tình yêu tạo dựng trào ra từ tình yêu sung mãn dạt dào giữa Ba ngôi Thiên Chúa. Dĩ nhiên tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta thì đi trước tình yêu của chúng ta đối với ngài (xc. 1Ga 4,10.19). 

1/ Bản tính Thiên Chúa 

Mỗi lần nghe nói đến Ba ngôi Thiên Chúa, người ta liền nghĩ đến một “mầu nhiệm” (theo nghĩa là: bí ẩn, không hiểu nổi): Thiên Chúa là ba ngôi vị trong một bản tính duy nhất. Tuy nhiên, thánh Augustinô đã đề ra một lối tiếp cận khác, đó là “tình yêu”. Thiên Chúa ba ngôi có nghĩa là Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa không phải là kẻ cô độc lẻ loi, nhưng là Kẻ Yêu thương. Thiên Chúa yêu thương Lời của Người; Thánh Linh chính là Tình yêu giữa Cha và Lời. Vì thế không lạ gì mà thánh Augustinô đã viết: “nếu bạn thấy tình yêu thì bạn thấy Tam vị”3

Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu là bản tính của Thiên Chúa. Tất cả những hoạt động của Thiên Chúa biểu lộ bản tính của ngài là tình yêu, từ công cuộc tạo dựng (vũ trụ, nhân loại cũng như mỗi người) cho đến công cuộc cứu chuộc (khi Con Thiên Chúa đến cư ngụ giữa loài người, và hiến mạng cho loài người). 

2/ Mạc khải tình yêu 

Để mạc khải tình yêu này, Thiên Chúa không ngần ngại sử dụng ngôn ngữ tình yêu của loài người: tình cha (xc. Gr 21,30), tình mẹ (xc. Is 49,75; Hs 11,1-4), và đặc biệt là tình vợ chồng. Nhiều ngôn sứ so sánh tình yêu của Thiên Chúa đối với Israel như mối tình phu thê: ngài “ghen” thì thấy dân này chạy theo các “tình nhân” khác (nghĩa là các thần linh khác: Xh 34,14; Hs 2,4tt); cách riêng sách Diễm tình đã được đưa vào bộ Sách Thánh. Nói khác đi, những mối tình cao đẹp của con người đã được áp dụng cho tình yêu của Thiên Chúa, cũng như áp dụng cho tình yêu của con người đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn cho chúng ta yêu mến ngài, nghĩa là có phần chủ động chứ không chỉ thụ động nhận lãnh (xc. DCE số 9-11). 

3/ Tình yêu nhập thể 

Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người đạt đến cao điểm nơi mầu nhiệm Nhập Thể: nơi Đức Kitô con người có thể cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại (Rm 8, 39): đức Kitô đã yêu thương với một trái tim con người. Tuy nhiên, cũng có nói ngược lại, nơi đức Kitô, Thiên Chúa gặp được một đối tác cân xứng với tình yêu vô biên của ngài. Như vậy, nơi đức Kitô, tình yêu của con người đạt đến tầm mức vô biên: Thiên Chúa có thể yêu con người cách vô biên, và con người có thể yêu Thiên Chúa cách vô biên. Thiên Chúa yêu con người cách vô biên bởi vì Ngài yêu con người với tình yêu đối với Con của Ngài. Con người yêu Thiên Chúa cách vô biên nhờ tình yêu mà Thần khí đức Kitô được đổ tràn vào tâm hồn chúng ta (Rm 5,5; 1 Ga 4,13). Thần khí ở lại trong chúng ta và kết nạp chúng ta vào tình yêu của Cha và Con (xc. Ga 14,23). 

4/ Tin vào tình yêu 

“Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu các con” (Ga 15,12; 1 Ga 4,11). Thoạt tiên, xem ra đối với người Kitô hữu, yêu mến thuộc lãnh vực hành động (luân lý); tuy nhiên, từ những điều vừa nói trên đây, tình yêu cần được xếp vào lãnh vực “tín lý”, như thánh Gioan tông đồ đã viết: “chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và chúng ta đã tin vào tình yêu đó” (1 Ga 4,11). Lý do là bởi vì chân lý về tình yêu liên quan đến bản tính Thiên Chúa. Đối với Kitô giáo, tin vào Thiên Chúa không chỉ có nghĩa là tin rằng ngài hiện hữu mà còn tin rằng ngài là Tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu có nghĩa là Thiên Chúa không phải là kẻ cô độc, nhưng là kẻ yêu thương ngay từ trong nội tại (Ba Ngôi) cũng như trong mọi hoạt động (tạo dựng và cứu chuộc). Tin vào Thiên Chúa là tình yêu không phải là chuyện dễ khi phải đụng chạm với vô số những đau khổ, bất công trên đời. Nhưng thánh Phaolô quả quyết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,35.37). Nên lưu ý là thánh Phaolô không thách thức: “ai có thể làm cho tôi xa lìa Đức Kitô?”, nhưng xác tín ngược lại: “tình yêu của Đức Kitô không bao giờ rời bỏ tôi kể cả vào lúc gặp gian nan thử thách”. Ông viết như sau: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,39). 

B. Những đặc điểm của tình yêu 

1/ Tình yêu bao hàm nhiều khía cạnh và tương quan: tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, và của con người đáp trả tình yêu Thiên Chúa; tình yêu đối với tha nhân xét như cá nhân và xét như cộng đồng. Có một sợi chỉ liên kết giữa các tình yêu ấy đã được bàn trong trong thông điệp Deus caritas est; thông điệp CIV rút vài hệ luận liên quan đến những đặc điểm của tình yêu: 

- Đối với người Kitô hữu, tình yêu là một ân ban, một tặng phẩm (được trao tặng) và rồi được chia sẻ: con người lãnh nhận tình yêu và trở thành người truyền bá tình yêu (số 5). Tình yêu trở nên một nguồn sức mạnh, bởi vì được trao ban từ Thiên Chúa, được Đức Kitô giảng dạy và làm chứng (số 1). Tình yêu trở nên động lực chi phối mọi hành động luân lý, đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân, trong những tương quan cá nhân cũng như cộng đồng (số 2). 
- Yêu ai có nghĩa là quan tâm đến điều thiện cho người ấy (số 7), không những là điều thiện của cá nhân mà còn là điều thiện của cộng đồng (điều thiện chung: bonum commune, common good). 
- Yêu là tôn trọng tha nhân. Trước hết, cần tôn trọng quyền lợi của họ (công bình). Nhưng tình yêu còn đi xa hơn công bình (số 6)4
- Cách riêng, trong hoạt động kinh tế, tình yêu có nghĩa là trao tặng (chứ không phải chỉ nhắm lợi nhuận (số 34, và suốt chương Ba) 

2/ Tình yêu, công bình, chân lý, tự do. 

Những liên hệ giữa tình yêu và nhân đức khác sẽ được bàn tiếp, sau khi đã tìm hiểu những ý nghĩa của “chân lý”. 

II. Chân lý 

Trước tiên, chúng ta hãy tìm hiểu: chân lý là gì? Chân lý bao hàm nhiều khía cạnh. Thứ đến, chúng ta hãy xem cuộc tranh luận về khả năng hiểu biết chân lý vào thời cận đại. 

A. Chân lý là gì? 

Trước toà tổng trấn Philatô, đức Giêsu tuyên bố sứ mạng của mình là làm chứng cho chân lý (Ga 18, 37), nhưng lập tức Người đã bị tổng trấn ngắt lời: “chân lý là gì?” (Ga 18,38), và ông không muốn nghe tiếp. Phải chăng ông Philatô muốn tránh cuộc tranh luận phiền toái? Hay là vì ông hoài nghi về chân lý? Chúng ta sẽ trở lại câu hỏi này. Riêng về khía cạnh từ ngữ, tiếng Việt dùng hai hạn từ tương đương “chân lý” và “sự thật” để dịch cũng một danh từ trong các ngôn ngữ Tây Âu (veritas tiếng latinh, vérité tiếng Pháp, truth tiếng Anh). Chân lý là một hạn từ Hán Việt, có nghĩa là cái lý lẽ của sự vật (chân = có thật). 

1/ Trong ngôn ngữ hàng ngày, người ta dùng tiếng “thật” (hay “thực” ) ít là vào bốn phạm vi khác nhau: 

a) Trước hết, khi áp dụng vào một sự vật hay sự kiện, thì “thực” đối lại với “giả” (đồ thực / đồ giả); chuyện “thật” (chuyện đã xảy ra thực sự) trái ngược với chuyện “bịa đặt” (không có, giả mạo). 

b) Khi áp dụng vào tư tưởng và nhận thức, thì “thực” có nghĩa là “đúng”: ý kiến đúng (trung thực) khi nhận thức phù hợp với thực tại khách quan5, đối lại với “sai, trật, lầm”. Hiểu như vậy, chân lý (sự thật) đối lại với lạc thuyết, tà thuyết. 

c) Khi áp dụng vào lời nói, thì “thực” có nghĩa là phát biểu hợp với tư tưởng tâm tình, có sao nói vậy: nói thật (ngược lại với nói dối). Lời nói trung thực thường cũng được gắn liền với sự trung thành (hay trung tín): đã hứa thì cương quyết giữ lời. 

d) Khi áp dụng vào lối sống, “thực” có nghĩa là chân thành, chân thực, trung thực (đối lại là con người gian trá, xảo quyệt, giả dối)6

Từ đó người ta phân biệt ít là ba thứ chân lý: 

- a) Chân lý bản thể (khách thể: veritas ontologica, veritas rei), nằm trong bản chất của sự vật (nó như thế nào?). Sự thật có thể khám phá bằng lý trí và được soi sáng nhờ mạc khải về ý định của Đấng Tạo hóa dành cho mỗi thực thể. 

- b) Chân lý luận lý (veritas logica), thuộc về nhận thức của trí tuệ (có đúng không?). 

- c) Chân lý luân lý (veritas moralis), mang tính cách thực tiễn, bao gồm luôn cả việc “nói thật” (veracitas) và “sống thực” (authenticitas). 

Nói cách khác, chân lý không chỉ là đối tượng của nhận thức (biết sự thật) và còn là đối tượng của lời nói và lối sống (nói thật, sống thật). 

2/ Riêng trong phạm vi nhận thức (nghĩa thứ hai vừa nói trên đây), người ta phân biệt nhiều cấp độ nắm bắt chân lý, dựa theo lối tiếp cận: 

a) Chân lý thường thức: sự kiện xảy ra trong đời sống hằng ngày, có thể kiểm tra qua việc điều tra thu thập dữ kiện. 

b) Chân lý khoa học thực nghiệm: các lý thuyết được xác minh bằng những thử nghiệm. 

c) Chân lý siêu hình: các kết luận được chứng minh bằng lập luận chặt chẽ. 

d) Chân lý tôn giáo: vượt lên thế giới thực nghiệm, dựa vào sự xác tín của chứng từ. 

B. Khả năng nhận biết sự thật. 

Bản tính con người là muốn biết sự thật. Mỗi ngày chúng ta theo dõi tin tức để biết chuyện gì xảy ra trên đời. Khi nghe tin có một án mạng, chúng ta muốn được biết sự thật: ai là thủ phạm? ai là kẻ chủ mưu? Thêm vào đó, cuộc sống trong xã hội cũng đòi hỏi các mối tương quan được xây dựng trên sự thành thực với nhau. 

Tuy nhiên, con người có khả năng nhận biết sự thật không? Chắc chắn là trên đời này còn rất nhiều điều bí ẩn mà chúng ta không mong gì sẽ biết tường tận. Tuy nhiên, trong lịch sử triết học, nhiều câu hỏi tổng quát đã được đặt ra chung quanh khái niệm về chân lý (sự thật): chân lý là gì? có chân lý không? lấy gì làm tiêu chuẩn xác định chân lý, phân định cái đúng cái sai? có chân lý tuyệt đối không? Nhiều ý kiến đã được đưa ra. 

1/ Thuyết hoài nghi (scepticismus) cho rằng không có chân lý. Theo họ, trên đời này không có tiêu chuẩn nào để xác định điều gì là đúng hay sai. Thuyết hoài nghi đã xuất hiện từ thời cổ bên Hy-lạp. Trên nguyên tắc, thuyết hoài nghi gặp mâu thuẫn nội tại, bởi vì nếu chủ trương rằng trên đời này không có chân lý, thì chính thuyết hoài nghi cũng không phải là chân lý. Nếu vậy thì hơi đâu mà mất thời giờ để tranh luận! Tranh luận là để tìm hiểu cái gì đúng, cái gì sai; chứ nếu cái đúng cũng y như cái sai, thì tranh luận làm gì? 

Tuy vậy, trên thực tế, vào thời nay nhiều người không muốn tranh luận về chân lý một cách trừu tượng như vậy. Vấn đề chân lý được chuyển sang lãnh vực thực hành. Người ta không mấy bận tâm đến chuyện có chân lý hay không, hoặc lấy gì làm tiêu chuẩn xác định chân lý. Đối với họ, để biện minh cho hành động của mình, họ dựa theo cái gì hữu ích, hoặc dựa theo dư luận (ý kiến của đa số). 

2/ Thuyết tương đối (relativismus) chấp nhận rằng có chân lý, nhưng mọi chân lý đều tương đối, chỉ có giá trị trong một thời đại hay nền văn hoá nào đó. Điều này được áp dụng cách riêng cho các tôn giáo. Không tôn giáo nào nắm bắt chân lý trọn vẹn. Mỗi tôn giáo chỉ chứa đựng một phần chân lý thôi. Người ta thường trưng dẫn điển tích các anh mù sờ voi để làm thí dụ. Một nhà vua cho mời các anh mù đến dinh, và cho họ sờ một con voi. Anh thì sờ cái tai, anh sờ ngà, vòi, chân, đuôi. Sau đó nhà vua hỏi ý kiến của họ về con voi. Mỗi người mô tả con voi một cách, tuỳ theo cảm giác của mình: con voi giống như cái thúng, giống như cái bình, giống như cái chổi, giống như cột đình, vân vân. Điều tức cười là anh nào cũng khăng khăng bảo rằng chỉ có nhận định của mình là đúng, và bài xích các ý kiến ngược lại. Đến lúc nào đó, họ mất tự chủ, từ chỗ đấu khẩu quay sang đấm đá nhau. Lúc ấy nhà vua mới lên tiếng: “này các anh, các anh đã quên rằng mình là người mù: mỗi người chỉ rờ được một phần của con voi, chứ đâu có ai thấy được tất cả con voi đâu?”. 

Câu chuyện vừa rồi để lại cho ta một bài học khiêm tốn: trên hành trình tìm kiếm chân lý, chúng ta đều là những người mù; mỗi người chỉ nhìn thấy một góc cạnh của vấn đề mà thôi. Một cách tương tự như vậy, mỗi tôn giáo chỉ có thể khám phá một góc cạnh của Đấng Vô biên; vì vậy đừng ai tự tôn tuyên bố mình chiếm hữu chân lý toàn diện, để rồi bài xích người khác. Chủ trương nắm giữ chân lý sẽ đưa đến thái độ bất bao dung, muốn diệt trừ các ý kiến trái nghịch, sai lầm. Do đó, mỗi người hãy chấp nhận tính cách tương đối của chân lý, chấp nhận những ý kiến khác biệt. 

Tuy nhiên, một vấn nạn được nêu lên cho thuyết tương đối cũng tương tự như thuyết hoài nghi, đó là: nếu mọi chân lý đều mang tính cách tương đối, thì thuyết tương đối cũng chỉ đúng tương đối chứ không đúng trăm phần trăm! 

3/ Trong cuộc tranh luận về khả năng nhận biết chân lý tuyệt đối, trong số những triết gia đã gây ảnh hưởng đến tư tưởng cận đại, ta không thể nào bỏ qua ông Immanuel Kant. Ông phân biệt giữa lý trí thuần tuý và lý trí thực tiễn. Lý trí thuần tuý chỉ có thể đạt tới các hiện tượng (phenomenon) chứ không đạt tới các chân lý siêu hình tựa như bản tính (noumenon). Sự phân biệt này mang theo nhiều hậu quả cho tri thức luận. 

a) Dựa trên sự phân biệt giữa sự hiểu biết về hiện tượng và về bản tính, các ngành học được chia làm hai khối: khoa học thực nghiệm khảo sát các hiện tượng; còn chuyện bản tính thì dành cho triết học7. Triết học không mang tính cách khoa học. 

b) Dựa trên sự phân biệt giữa lý trí thuần tuý và lý trí thực tiễn, các chân lý liên quan đến Thiên Chúa và luân lý đạo đức nằm trong lý trí thực tiễn. Nói cách khác, tôn giáo là chuyện của tình cảm chứ không phải của lý trí. Tiếp theo ông Kant, vai trò Tuyệt đối của Thiên Chúa được chuyển sang cho Tinh thần (theo Hegel) hay Tiến hoá lịch sử (theo Marx). Thiên Chúa đã bị loại ra khỏi thế giới. 

4/ Nên biết là tuy ông Kant phân biệt những lối tiếp cận chân lý, nhưng chúng có thể đồng hành với nhau, nhưng đến lượt ông Auguste Comte (1798-1857) thì chúng loại trừ nhau. Theo ông Comte cha đẻ của khoa học thực nghiệm, tôn giáo, triết học và khoa học không phải là ba đường lối tiếp cận thực tại, nhưng là ba trạng thái tiến hoá của nhân loại. Tôn giáo và triết học (siêu hình) thuộc về quá khứ rồi, khi nhân loại còn trong tình trạng ấu trĩ, cho nên tìm cách giải thích vũ trụ bằng thần thoại và suy diễn. Bây giờ đã đến thời của khoa học thực nghiệm. Khoa học thực nghiệm dựa trên giả thuyết, thí nghiệm, kiểm chứng. Chuyện “đúng” hay “sai” không dựa trên lý luận, nhưng dựa trên kết quả. Cái gì làm được (khả thi) là đúng, cái gì bất khả thi là không đúng. Không có một giới hạn nào khác nữa được đặt ra cho các công cuộc thí nghiệm khoa học. 

Những quan điểm vừa rồi dẫn đến ít là ba hệ luận như sau: 

a) Hệ luận thứ nhất: như vừa nói, việc nhận biết Thiên Chúa không thuộc phạm vi của lý trí, nhưng là chuyện tình cảm chủ quan. 

b) Hệ luận thứ hai là không có một chân lý khách thể tuyệt đối. Chân lý là điều do con người đặt ra, là thành quả của những công trình nghiên cứu và thử nghiệm. Chân lý mang tính cách năng động. 

c) Trong lãnh vực luân lý đạo đức, không có một quy chuẩn khách quan phổ quát. Mỗi người hãy hành động theo lương tâm của mình, làm điều mà mình nghĩ là đúng. Nếu ta phải tuân thủ một quy chuẩn ở bên ngoài hay ở bên trên ta, thì ta sẽ không còn tự do nữa. 

Thoạt tiên xem ra những chủ trương này thật là hấp dẫn bởi vì đề cao phẩm giá con người, cách riêng là quyền tự do. Tuy nhiên, nếu phân tích sâu xa thì ta sẽ thấy những nghịch lý về lý thuyết cũng như về thực hành. Xét về lý thuyết, chúng ta biết rằng khả năng của con người bị giới hạn, chứ không toàn năng làm được bất cứ điều gì mình muốn! Xét về thực hành, quyền tự do lại càng bị hạn chế hơn nữa. Sống trong xã hội, tôi phải tìm cách dung hoà tự do của tôi với tự do của người khác: tôi phải tôn trọng tính mạng, tài sản của họ, chứ không thể nào tôi cứ tự tiện đòi giết người cướp của; dĩ nhiên tôi không muốn cho họ tự tiện ăn cướp hay giết tôi. Như vậy, gián tiếp tôi phải chấp nhận rằng cần có một quy luật ấn định điều tốt điều xấu, điều gì được phép làm và điều gì không được phép làm. Dựa vào đâu để xác định điều được phép và điều không được phép làm? Phải chăng dựa trên ý kiến của đa số, hay ý kiến của thiểu số nắm quyền lực? Kinh nghiệm đau thương dưới các chế độ độc tài cho thấy rằng động lực của những người phủ nhận chân lý không phải là nhằm bảo vệ tự do của con người nhưng là để áp đặt ý thức hệ của họ. Chế độ phát-xít Đức tự cấp cho mình quyền sát sinh người Do thái, các chế độ mác-xít cũng tự ban cho mình quyền khai trừ những thành phần làm cản bước tiến của xã hội chủ nghĩa; chế độ tư bản ngày nay cũng dành quyền khai trừ không những là những kẻ bị xếp vào hàng khủng bố, mà cả các thai nhi, các người già lão, vì những người này không có lợi gì cho nền kinh tế! Nói khác đi, họ thay thế tiêu chuẩn lượng định hành vi, từ cái “đúng / sai”, sang chỗ “lợi / hại”: điều này có lợi hay có hại cho tôi? 

4/ Lập trường của Giáo hội Công giáo có thể tóm lại ở vài điểm sau. 

- Có một chân lý khách thể tuyệt đối. Chân lý khách thể thứ nhất chính là Thiên Chúa, Đấng sáng tạo vạn vật. Con người cố gắng khám phá chân lý, chứ không tạo ra chân lý. Con người phải tôn trọng trật tự mà Đấng Thượng trí đã hoạch định. 
- Trên đường khám phá chân lý, con người sử dụng lý trí của mình, nhờ những công trình nghiên cứu cũng như nhờ sự học hỏi từ tiền nhân và trao đổi kinh nghiệm với tha nhân. Nhờ sử dụng lý trí, con người có thể đạt tới những chân lý vĩnh cửu như là: sự hiện hữu của Thiên Chúa và linh hồn, những nguyên tắc luân lý tự nhiên. 
- Ngoài những chân lý mà con người có thể khám phá nhờ khả năng lý trí, còn có những chân lý mà con người lãnh nhận từ mặc khải (GLCG số 36-38; 50). Các chân lý của lý trí và các chân lý của mặc khải không thể nào mâu thuẫn với nhau, bởi vì cả hai đều phát xuất từ một nguồn gốc là Thiên Chúa (GLCG số 159). Nếu sự xung đột xảy ra thì không phải là tại các chân lý kình địch nhau, nhưng là tại sự hiểu biết nông cạn của chúng ta. Một nguyên nhân xung đột giữa khoa học thực nghiệm và thần học vào những thế kỷ gần đây bắt nguồn từ sự lẫn lộn về lối tiếp cận. Thần học sẽ phạm lỗi lầm nếu muốn tìm trong Kinh thánh những lối giải thích về sự thành hình vũ trụ theo quan điểm của khoa học thực nghiệm; ngược lại, khoa học sẽ phạm lỗi lầm nếu phủ nhận các thực tại mà máy móc không thể đo lường được (thí dụ sự hiện hữu của linh hồn, hoặc sự hiện hữu của Thiên Chúa). Nói khác đi, Giáo hội chấp nhận rằng các chân lý nhận được từ mặc khải thì nằm trong lãnh vực tôn giáo và luân lý, chứ không bao hàm tất cả mọi khía cạnh của kiến thức nhân loại. Do đó, cần phải tôn trọng phương pháp nghiên cứu chuyên môn của các khoa học thực nghiệm và nhân văn. 
- Tôn giáo không chỉ bao hàm các chân lý trừu tượng mà thôi, nhưng còn gồm nếp sống luân lý và kinh nguyện nữa. Tôn giáo không phải chỉ là một học thuyết. Tuy vậy, các chân lý là một thành tố quan trọng của tôn giáo. Nếu thiếu thành tố chân lý, tôn giáo sẽ dễ rơi vào mê tín hoặc cuồng tín. Tôn giáo khuyến khích con người hãy hành động hợp với bản tính hữu lý của mình. Cách riêng Kitô giáo bao hàm chân lý về Thiên Chúa và về con người. Thiên Chúa tạo dựng con người vì yêu thương con người. Thiên Chúa dựng nên con người cho Thiên Chúa. Đây là nền tảng của phẩm giá con người: con người không phải là một dụng cụ được sản xuất cho một mục tiêu khác. Không ai được phép đối xử người khác như một đồ vật thí nghiệm. Điều này không những đòi hỏi phải tôn trọng mạng sống con người, dù là bào thai hay người tàn tật, nhưng còn phải tôn trọng phẩm giá con người (loại trừ mọi thứ khai thác bóc lột). Đi xa hơn nữa, chân lý về con người đòi hỏi tình liên đới với những con người dốt nát, nghèo khổ, bệnh tật, tạo cho họ điều kiện sống xứng với nhân phẩm. Trên thực tế, lịch sử đã cho thấy chân lý về con người đã giúp bảo vệ những thành phần yếu ớt trong xã hội khỏi sự đàn áp của bạo quyền. Kitô giáo chủ trương rằng bên trên luật pháp của quốc gia còn có luật Trời nữa. Nhân phẩm của con người dựa trên bản tính con người, chứ không do xã hội ban cấp. Vì thế, khi mở rộng đến Thiên Chúa, con người mở rộng ra cõi vô biên (thay vì bị nhốt trong cái cũi của cái tôi), vươn đến chân lý và tình yêu tuyệt đối. Nói khác đi, chân lý không trái ngược với tự do, nhưng còn giúp cho con người sống tự do đích thực, bởi vì sống hòa hợp với lý tính của mình chứ không theo dục vọng. 
- Tuy mang trách nhiệm loan truyền các chân lý mặc khải, nhưng Giáo hội không có quyền áp đặt các chân lý ấy cho hết mọi người. Giáo hội trình bày chân lý bằng đường lối thuyết phục, đối thoại và chứng tá, chứ không phải bằng vũ lực (GLCG số 160; 2106). 

C. Vài nhận xét 

1/ Con người khao khát biết chân lý, tuy rằng hành trình truy tầm chân lý rất cam go. Dù sao, việc tìm kiếm chân lý không chỉ là một khát vọng của con người nhưng còn là một quyền lợi và nghĩa vụ nữa. 

- Việc hiểu biết chân lý (cách riêng chân lý về ý nghĩa cuộc đời), tạo nên thiên chức cao quý của con người. Thực vậy, một khi đã nhận thức cứu cánh của đời mình, con người sẽ quy hướng tất cả các ước nghĩ và hành động nhắm tới đó. Cuộc sống con người không bị khép kín vào thế giới vật chất. 
- Trên đường tìm kiếm chân lý, con người gặp nhiều trở ngại. Giới hạn thứ nhất là sự dốt nát của mình. May thay, giáo dục có thể giúp ta vượt qua giới hạn đó. Tuy nhiên, trở ngại lớn hơn cả là tính tự ái tự đại của mình. Thật là khó chấp nhận rằng mình cần phải học hỏi người khác: không lẽ mình thua họ ư? Khổ hơn nữa, sự nhận thức chân lý nhiều lần đòi hỏi ta phải sửa đổi lề lối suy tư hoặc cách sinh hoạt. Tục ngữ đã chẳng nói rằng “nói thật mất lòng” đấy ư? Và lắm lần ta cũng ngại ngùng chấp nhận “sự thật phũ phàng”, bởi vì nó làm cho ta phải mất mặt! Như đã nói trên đây, chân lý không chỉ là đối tượng của nhận thức nhưng còn là đối tượng của lời nói (nói thật) và hành động (sống thực). 

Mặt khác, Chúa Giêsu đã bảo đảm rằng : “chân lý (hay sự thật) sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32). Sự thật sẽ mang lại cho ta tự do đích thực, bởi vì nó giải thoát ta khỏi ách nô lệ của dốt nát, giả dối. 

2/ Trong thông điệp CiV, chân lý bao hàm nhiều khía cạnh: 

a) Thiên Chúa là chính Chân lý. Nơi Ngài Chân lý và Tình yêu là một (số 1). 

b) Đức Kitô là thầy dạy chúng ta về chân lý: chân lý về Thiên Chúa, chân lý về con người. Người đã dạy bằng lời giảng, việc làm và bằng chính cuộc sống. Người đã chết để làm chứng cho sự thật về tình yêu (số 1). Đức Kitô là Đường, Chân lý và Sự sống (Ga 14,6). 

c) Giáo hội có nhiệm vụ giảng dạy chân lý: chân lý về Thiên Chúa cũng như chân lý về con người. Sự phát triển cần được nhìn trong chân lý toàn diện về con người. Lời khẳng định mạnh mẽ nhất là ở số 75 “vấn đề xã hội là vấn đề về con người”, trong một nhân sinh quan toàn diện (số 78). 

d) Bên cạnh những chân lý do Chúa mạc khải, còn có những chân lý mà lý trí có thể khám phá được. Trong lãnh vực này, Giáo hội đón nhận những đóng góp của triết học và khoa học. Vì thế đôi khi “chân lý” và “lý trí” đồng nghĩa với nhau. Giáo hội thâm tín rằng đức tin và lý trí không mâu thuẫn. Cả hai đều hỗ trợ cho nhau trong việc khám phá chân lý (đức tin và lý trí được đề cập ở các số 56; 59; 68; 74-76). 

e) Cũng giống như tình yêu, chân lý không do con người tạo ra nhưng là “đón nhận” (số 78). Mặt khác, chân lý cũng cần được “yêu mến” và “làm chứng” (số 2b). Chân lý không chỉ là đối tượng của trí tuệ mà còn là đối tượng của hành động nữa (cần phải “làm sự thật”: Ga 3,21). 

f) Nói cho cùng, thông điệp muốn trình bày: thế nào là sự phát triển thực sự? Thưa rằng khi nó phù hợp với kế hoạch mà Thiên Chúa dành cho con người (số 1). 

III. Caritas - Veritas 

Chúng ta đã khám phá ý nghĩa hàm súc của caritas và veritas. Khi ghép lại hai tư tưởng lại với nhau, thì thêm được cái gì? 

Tựa đề của thông điệp là caritas in veritate. Cụm từ này được lặp đi lặp lại nhiều lần trong văn kiện. Trước khi phân tích những đoạn văn ấy, thiết tưởng không nên bỏ qua những công thức kết hợp cổ điển khác: caritas vera và veritas in caritate. 

1/ Caritas vera (hoặc: vera caritas) 

Công thức này có thể dịch sát nghĩa là “tình yêu chân thực”. Trên thực tế, có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. 

a) Tình yêu “chân thực”, đối lại với tình yêu “giả dối”. 

Trong tương quan xã hội, chúng ta đã nghe biết nhiều chuyện lường gạt nhau về tình hay về tiền. Đó là một thí dụ về tình yêu giả dối; tuy nhiên Tân ước còn nói đến tình yêu chân thực theo một nghĩa sâu xa hơn. Trong thư gửi Rôma, thánh Phaolô viết: “Lòng bác ái không được giả hình, giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12, 9-11). Thánh Phaolô phát biểu lời khuyên dưới dạng tiêu cực: “tình yêu không được giả hình, giả bộ”8, nhưng các tác giả Kitô giáo đã sớm diễn tả dưới dạng tích cực: “ubi caritas est vera, ibi Deus est”9 (đâu mà tình yêu chân thật thì Thiên Chúa ở đấy). Thế nào là tình yêu không giả hình, tình yêu chân thật? Câu hỏi này đã gây ra khá nhiều cuộc tranh luận trong lịch sử thần học liên quan đến những khía cạnh của đức ái, cách riêng là về trật tự trong đức ái. 

b) Tình yêu chân thật: yêu bằng hành động hay yêu trong lòng? 

Một hoàn cảnh xảy ra hằng ngày: khi gặp một người nghèo đói thì ta phải giảng cho họ về Thiên Chúa là tình yêu, hay phải lo cho họ chén cơm manh áo? Câu trả lời quá rõ ràng: tình yêu chân chính được diễn tả qua hành vi cụ thể chứ không phải chỉ dừng lại ở đầu môi chót lưỡi (xc. 1Ga 3, 17-18; Gc 2,15-16). 

Thế nhưng sự thật không đơn giản như thế! Có bao nhiêu đại gia làm việc từ thiện để được quay phim chụp hình; như vậy đâu có phải là tình yêu chân thật! Nói khác đi, đức ái chân thật phải bắt đầu từ trong tim, rồi sau đó mới diễn tả ra hành động. Người ta lưu ý rằng trong “bài ca đức ái”, thánh Phaolô liệt kê rất nhiều đức tính của “con tim” chứ không đả động gì đến hành động: “đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7). 

Nếu suy nghĩ kỹ, ta sẽ thấy chẳng có gì mâu thuẫn cả. Trong đoạn văn này, thánh Phaolô đang nói đến tình yêu agape chứ không phải bất cứ thứ tình yêu nào. Yêu chân thật là yêu với trái tim của Thiên Chúa: yêu thương giống như Chúa yêu. Ở đâu có agape như vậy thì ở đấy có Chúa hiện diện. Nếu thiếu agape thì dù có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí thì cũng chẳng ích gì! 

Dĩ nhiên tình yêu agape (bắt nguồn từ con tim) phải phát sinh những hành vi cụ thể (xc. 2Cr 5,14: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi”), không những trên bình diện cá nhân mà thậm chí trên bình diện cộng đồng xã hội nữa, như sẽ nói sau. 

c) Tình yêu chân thật: yêu tha nhân vì tha nhân, hay là yêu tha nhân vì Chúa? 

Nhận xét vừa rồi đã cho chúng ta câu trả lời: cần phải yêu tha nhân vì lòng mến Chúa. Thế nhưng vào thời nay, một vấn nạn được nêu lên trong lãnh vực truyền giáo như thế này: ta giúp người nghèo chỉ vì muốn giúp đỡ họ thực tình, hay còn vì muốn chiêu dụ họ theo đạo? Phải chăng công việc từ thiện không còn nhằm đến phục vụ người nghèo, mà chỉ là một dụng cụ tuyên truyền? 

Nếu suy nghĩ kỹ về bản chất của agape thì vấn nạn không khó trả lời. Chúng ta yêu người nghèo với agape của Chúa: Chúa muốn điều tốt “toàn diện” cho con người (người nghèo), cả linh hồn lẫn thể xác. Nếu ta dùng việc từ thiện để chiêu dụ người nghèo vào đạo thì tình yêu của ta trở thành lệch lạc rồi, bởi vì ta muốn điều khiển người nghèo theo ý muốn của ta, chứ không theo ý muốn (tình yêu) của Thiên Chúa (DCE số 31). 

2/ Veritas in caritate 

Cụm từ này, trích từ thư gửi Ephêsô (4,15): “veritatem facientes in caritate”, đã được trưng dẫn hơn một lần để Giáo hội tự vấn về vài biện pháp cứng rắn khi bảo vệ chân lý: có thể cưỡng bách người khác phải chấp nhận chân lý không? Công đồng Vaticanô II trả lời rằng: không được! Chân lý chỉ có thể ràng buộc bằng chính sức mạnh của mình, chứ không bằng vũ lực bên ngoài . 

a) Phải thú nhận rằng đôi khi thực tế đặt ra những trường hợp nan giải. Trên đây, chúng ta đã chẳng nói rằng yêu nhau là nói sự thật cho nhau, cho dù “nói thật mất lòng” đấy ư? Hay là vì yêu thương mà ta không được dùng biện pháp cứng rắn? Giả như một người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thì thử hỏi: thế nào là yêu thương nó10? Yêu thương là đi tìm kiếm nó (kể cả nhờ đến lực lượng công an), dẫn nó về nhà, và nếu nó còn muốn trốn đi thì hãy xích nó lại? Hay là thương yêu đứa con có nghĩa tôn trọng tự do của nó, chỉ biết ra cửa sổ ngồi khóc chờ ngày nó hối hận trở về? 

b) Tuy nhiên chúng ta cũng có thể áp dụng cụm từ “veritas in caritate” vào một bối cảnh khác, đó là: hãy trình bày chân lý trong sự kính trọng tha nhân, trong thái độ hoà nhã (1Pr 3,15-16). Chúng ta chia sẻ niềm tin của mình cho tha nhân vì yêu thương họ, chứ không phải với tư cách trịch thượng của kẻ đã nắm chắc chân lý trong tay, muốn lên mặt dạy đời! 

3/ Caritas in veritate 

Bây giờ chúng ta đến thông điệp đang bàn. 

Tân ước chỉ có cụm từ veritas in caritate (Ep 4,15) vừa trưng dẫn trên đây, chứ không nói đến caritas in veritate. Đức Thánh Cha đảo ngược lại thứ tự để rồi đưa về tư tưởng nguyên thuỷ. 

Nội dung của thông điệp CiV bàn về những vấn đề xã hội, và cụ thể hơn nữa, vấn đề phát triển con người. Điều này đòi hỏi một sự dấn thân để phục vụ tha nhân, cách riêng những người nghèo cũng như những dân tộc nghèo. Tuy nhiên, hoạt động xã hội (bao gồm lãnh vực kinh tế, chính trị) cần được hướng dẫn bởi chân lý về con người. Lý luận xem ra mơ hồ, nhưng chúng ta có thể đưa ra một ví dụ như sau: nếu tôi gặp một người đói thì tôi phải cho anh ăn cơm, bởi vì nó đáp ứng với sự cần thiết của anh lúc này; giả như tôi biếu anh một cái máy vi tính thì không thể nói là tôi yêu anh thực tình. Một cách tương tự như vậy, nhìn một cách tổng quát, hoạt động bác ái cho một cá nhân hay một dân tộc cần phải đáp ứng với chân lý về sự phát triển toàn diện con người. Con người có những nhu cầu thể xác nhưng cũng có những nhu cầu tinh thần, cách riêng nhu cầu tôn giáo. Sự phát triển kinh tế cần tuân theo những giá trị khách thể của trật tự mà Thiên Chúa đã thiết lập. Thông điệp CiV trình bày giáo huấn của Giáo hội về con người, về xã hội, về nhân loại. Chúng ta sẽ còn nhiều cơ hội để ôn lại những điều ấy. Ở đây chúng tôi chỉ muốn dừng lại ở những nét đối chiếu giữa caritas với veritas, được nói ở phần nhập đề của thông điệp (số 1-9). 

1/ Nơi Thiên Chúa, caritas và veritas đồng nhất với nhau (số 1). Dĩ nhiên ở đây, caritas phải hiểu là “Tình yêu”. Thiên Chúa là Tình yêu vĩnh cửu và Chân lý tuyệt đối. Nơi Thiên Chúa, tất cả mọi sự đều là tương quan và ban phát Tình yêu trong Chân lý, trước hết là nơi Đức Giêsu Kitô, kế đến là nơi mỗi nhân sinh, và sau cùng là nơi toàn thể vũ trụ (xem thêm các số 52 và 54). Vì thế không thể nào tách rời tình yêu với chân lý. Con người mang trong mình sự khao khát tình yêu và chân lý. Chân lý cần được tìm kiếm và diễn tả trong bầu khí của tình yêu; đối lại, tình yêu cần được hiểu biết và thực hành dưới ánh sáng của chân lý. Khi trình bày chân lý là chúng ta phục vụ tình yêu, và việc thực hành yêu thương tăng cường sức khả tín của chân lý. Nếu không có chân lý, thì tình yêu chỉ là tình cảm rỗng tuếch và dễ bị lệch lạc do đủ thứ ý kiến xu thời. Nhờ chân lý, chúng ta có khả năng vượt lên những ý kiến, ấn tượng, giới hạn văn hóa, để thiết lập những giá trị nền tảng chung. Trong tương quan xã hội, tình yêu đi đôi với chân lý dẫn đến việc tôn trọng công bằng và công ích. 

2/ Từ thâm tín căn bản ấy, thông điệp áp dụng cụm từ “caritas in veritate” vào giáo huấn xã hội, đặc biệt là trong vấn đề phát triển. Điều này được khẳng định ngay từ những lời mở đầu “Tình yêu trong chân lý ... là sức mạnh chính yếu của sự phát triển đích thực của mỗi người và của hết mọi người” (số 1). Xem thêm: số 2; 4; 5; 6; 9. 

3/ Thông điệp không nói “tình yêu và chân lý”, nhưng là “tình yêu trong chân lý”. Có gì khác biệt giữa hai công thức ấy?. Thiết tưởng có lẽ công thức thứ hai muốn nhấn mạnh sự liên hệ chặt chẽ (chứ không chỉ sánh vai): yêu thương trong chân lý (yêu thật tình), và chân lý cần được diễn tả ra tình yêu (xem số 2b). Ngoài ra, một thuật ngữ tương đương khác là “agape / logos”, “tình yêu và lời” (cuối số 3), thêm vào nhiều dụng ngữ khác, chẳng hạn như: tình yêu thấm nhuần sự thật, tình yêu đầy sáng suốt, hiểu biết thầm nhuần tình yêu, nhiệt huyết của tình yêu và sự khôn ngoan của lý trí. 

Dù sao nên ghi nhận một thuật ngữ rất đẹp đã được sử dụng trong sách TLHTXH (số 109), đó là phẩm giá con người nằm ở chỗ đã được Chúa yêu thương: mỗi người hiện hữu do tình yêu của Thiên Chúa (số 1). 

4/ Bây giờ chúng ta hãy đối chiếu với bộ mặt trái của nó, nghĩa là hoặc tách rời hai vế, hoặc loại trừ một trong hai vế, cách riêng là trong hoạt động kinh tế xã hội. 

- Loại trừ caritas: khi con người sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân chứ không quan tâm đến tha nhân; khi đối xử với tha nhân theo đúng “công bằng” mà thiếu tình thương. Dĩ nhiên, ai không tôn trọng công bằng thì làm sao nói được là yêu thương? 

- Loại trừ veritas. Đây không hẳn là lừa gạt gian dối, nhưng là không tôn trọng sự thật về con người: không tôn trọng phẩm giá và quyền lợi của con người (xét như cá nhân hoặc như dân tộc), không nhìn nhận chiều kích siêu việt của con người. Mối bận tâm nhất của Đức thánh cha Benedicto XVI là con người muốn gạt Thiên Chúa ra khỏi xã hội, và muốn chế tạo một trật tự mà không đếm xỉa gì đến Thiên Chúa. Một nền nhân bản loại bỏ Thiên Chúa sẽ trở thành phi-nhân-bản (số 78). 

Kết luận 

1. Trong bài nhập đề, chúng ta đã dừng lại khá dài về ý nghĩa các từ ngữ. Thiết tưởng đây là những khái niệm căn bản của đạo Thiên Chúa: tình yêu (yêu thương, bác ái), chân lý (sự thật). Những điểm này sẽ là động lực cho giáo huấn xã hội cũng như hoạt động của các tín hữu: nó trở thành một thứ “linh đạo” của hoạt động xã hội. Giáo hội không có giải pháp kỹ thuật cho các vấn đề kinh tế xã hội, nhưng có thể cống hiến một đường hướng hành động: cần thấm nhiễm tinh thần thương yêu, liên đới trong sự thật. Theo đức thánh cha Benedicto XVI, “tình yêu trong sự thật” là chìa khóa giải thích lý do hiện hữu của Giáo huấn xã hội của Giáo hội: 

2. Có thể đào sâu thêm những điểm này trong Sách Tóm lược Học thuyết xã hội Công giáo. 

- Tình yêu là sợi chỉ xuyên suốt đạo lý xã hội, và những liên hệ với chân lý, công bằng, tự do (số 204-207). Chân lý như một giá trị nền tảng của đời sống xã hội: số 198. 
- Giáo huấn xã hội của Giáo huấn dựa trên chân lý toàn diện về con người (số 1-6; 106-208). 

Chúng ta sẽ còn trở lại những nguyên tắc này khi đi vào những vấn đề cụ thể của kinh tế, thị trường, vv. trong những chương tới. 

3. Mặt khác, thông điệp CiV không chỉ nói đến hai nguyên tắc căn bản (yêu thương và chân lý), nhưng còn nhắc đến những nguyên tắc khác nữa: 

- Yêu thương: 1, 2, 5a, 6b, 52, 77, 79. 
- Chân lý: 1, 3, 4, 8, 9b, 18, 52, 70, 73, 77, 79. 
- Công bằng: 6, 7, 35a, 37b. 
- Công ích: 7, 36a, 71, 73. 
- Huynh đệ: 19, 20, 73. 
- Tự do có trách nhiệm: 17, 40, 68, 70, 73. 
- Hỗ trợ: 57, 58, 60. 
- Liên đới: 38, 58. 

Lm Giuse Phan Tấn Thành O.P

---------------

[1] Tiếng Việt rất phong phú trong ngôn ngữ diễn tả tình cảm: yêu, thương, mến, chuộng, thích, mê, ham, cùng với những từ ghép: yêu thương, yêu mến, yêu quý, yêu chuộng, thương yêu, cảm mến, mến chuộng, thương xót, thương hại, vv. 
[2] Đại khái, êros bao hàm khía cạnh dục vọng, say mê, chiếm hữu; philia thì thanh tao cao thượng hơn, nhưng vẫn còn mong đền đáp; agape thì hoàn toàn vô vị lợi.Agape được dịch sang tiếng Latinh là caritas (do tính từ carus: quý giá, thân thiết), hay dilectio (ưa chuộng), benevolentia (muốn điều tốt), và amor. 
[3] “Vides Trinitatem si caritatem vides”, De Trinitate VIII, 8,12, được DCE trưng dẫn ở số 19. 
[4] Trong thông điệp Deus caritas est, Đức thánh cha còn nói rằng nhiệm vụ của Nhà Nước là thực hiện công lý (công bằng), còn nhiệm vụ của Giáo hội là thực hành yêu thương (bác ái), nhằm đến việc xây dựng một nền văn minh của tình yêu. 
[5] Định nghĩa của thánh Tôma: “veritas est adaequatio intellectus et rei “(Summa theologiae , I, q.16) 
[6] Xc. Sách GLCG số 2465-2470: “Sống trong chân lý”. Xem thêm các số 2475-2487: “Những xúc phạm đến chân lý” (làm chứng dối và thề gian; phán đoán hồ đồ, nói xấu, vu khống; nịnh hót, bợ đỡ hoặc tâng bốc; khoe khoang khoác lác; nói dối). Số 2488-2492: “Tôn trọng chân lý” (truyền thông chân lý; tôn trọng bí mật; tôn trọng đời tư). 
[7] Thực ra những học thuyết chủ trương giới hạn khoa học vào khía cạnh thực nghiệm đã được đề xướng trước ông Kant, chẳng hạn như: David Hume (1711-1776), và trước nữa do các ông John Locke (1632-1704) và George Berkeley (1685-1753). 
[8] Nguyên bản Hy-lạp là an-hypokritos (không giả hình), được dịch sang tiếng Latinh là “dilectio sine simulatione”. Tính từ này còn được dùng ở 2Cr 6,6 (in caritate non ficta) và 1 Pr 1,22 (amorem non fictum). 
[9] Bài ca rất phổ thông trong nghi thức rửa chân vào Thứ Năm Tuần thánh (người sáng tác được gán cho đức cha Paulinus Aquilêia k.726-804) “ubi caritas et amor ibi Deus est”; nhưng những thủ bản cổ điển viết là “ubi caritas est vera, ibi Deus est”, và Sách lễ Rôma từ ấn bản 1973 đã sửa lại, vì xem ra hợp lý hơn: caritas et amor đồng nghĩa với nhau. (Tiếng Việt dịch không sát: “đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời”). 
[10] Xc. Summa Theologica, II-II, q.10, a.8

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét