Trong nguyên bản tiếng Ý, sách Tóm lược Học thuyết xã hội dành 9 trang cho Nhập đề và 6 trang cho Kết luận. Tuy ngắn, nhưng kết luận hàm chứa khá nhiều vấn đề liên quan đến thần học, như sẽ thấy trong phần chú giải. Có bốn điểm được bàn trong Kết luận: 1/ Sự giúp đỡ mà Giáo hội mang lại cho con người thời đại. 2/ Khởi hành từ đức tin vào Đức Kitô. 3/ Niềm hy vọng vững bền. 4/ Xây dựng một nền văn minh tình thương. Có thể phân tích bố cục như thế này: điểm thứ nhất đặt vấn đề; ba điểm còn lại tìm cách trả lời bằng cách trình bày ba nhân đức: Tin - Cậy - Mến.
Trước tiên, chúng ta tóm lại nội dung của sách TLHT, sau đó sẽ bình luận
Mục I. Tóm tắt
I. Giáo hội mang lại điều gì cho con người thời đại?
A. Khát vọng của con người (số 575)
Con người thời nay có nhu cầu muốn biết về “ý nghĩa” của cuộc đời, ý nghĩa của những hoạt động của mình, ý nghĩa của cái chết.
Con người cảm thấy tương lai bấp bênh, đứng trước một thế giới với những mối tương quan quốc tế phức tạp, rối reng, trước mối đe dọa của khoa học và kỹ thuật đối với cái sống và cái chết của mình.
Con người cảm thấy nhiều bức xúc, vì giấc mộng thiên đàng trần gian ngày càng xa vời.
Con người có ý thức hơn về những quyền lợi bất khả xâm phạm và phổ quát của nhân vị
Con người khao khát những mối tương quan công bình và nhân đạo hơn.
B. Sứ mạng của Hội thánh (số 576)
1/ Hội thánh đáp lại những băn khoăn của con người về ý nghĩa và cứu cánh của lịch sử bằng cách loan báo Tin mừng của Đức Kitô:
- khẳng định phẩm giá con người trước những ý kiến bấp bênh,
- bảo vệ sự tự do của con người mà không luật pháp trần gian nào có thể mang lại,
- giúp con người khám phá nơi Thiên Chúa ý nghĩa tối hậu của cuộc đời.
2/ Tin mừng loan báo: - sự tự do của con cái Chúa, loại trừ mọi hình thức nô lệ phát sinh do tội lỗi; tôn trọng phẩm giá của lương tâm.
3/ Tin mừng thúc giục hãy sử dụng mọi tài năng để phục vụ con người. Tin mừng ký thác mỗi người cho mọi người (GS 41).
II. Tái khởi hành từ niềm tin vào Đức Kitô
Cuộc sống xã hội cần được gắn chặt vào kế hoạch của Thiên Chúa (số 577).
Niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô soi sáng những nguyên tắc luân lý làm nền tảng cho trật tự bền vững và yên ổn. Để giải thích và giải quyết những vấn đề hiện tại của việc chung sống xã hội cần phải nhìn theo viễn ảnh của Thiên Chúa[1].
- Cần một cuộc canh tân bản thân và xã hội để bảo đảm sự công bằng, liên đới, liêm khiết. Trọng tâm của vấn đề văn hóa hiện này là “ý nghĩa luân lý” đặt nền tảng trên “ý nghĩa tôn giáo”.
- Đứng trước vấn đề xã hội, không thể nào chấp nhận rằng có một phương án ảo thuật để giải quyết. Chúng ta được cứu thoát không phải nhờ một công thức, nhưng là nhờ một AI ĐÓ, tức là Đức Giêsu Kitô, Đấng cần được biết - yêu - bắt chước, nhờ thế ta có thể sống đời sống Tam vị trong Đức Kitô và để biến đổi thế giới cho đến khi hoàn tất trong thành Giêrusalem trên trời. Ta không cần phải sáng chế một chương trình mới: chương trình đã có rồi, được chứa đựng trong Tin mừng và truyền thống sống động.
III. Niềm hy vọng vững bền
1. Hội thánh dạy cho con người rằng Thiên Chúa đã cung cấp cho con người khả năng để vượt thắng sự dữ và đạt đến điều thiện (số 578).
Đức Kitô đã cứu chuộc chúng ta bằng “giá đắt” (1 Cr 6,20). Sự xác tín này có sức thắp lên niềm hy vọng, bất chấp tội lỗi đã ghi đậm dấu ở trên lịch sử.
Hội thánh nhìn nhận “mầu nhiệm của tội ác” (2Tx 2,7), nhưng cũng biết rằng trong thâm tâm con người vẫn có sự tốt căn bản (St 1,31). Con người là hình ảnh của Đấng Tạo hóa, được đặt dưới ảnh hưởng cứu chuộc của Đức Kitô. Đức Kitô cách nào đã kết hợp với mỗi một người.
2/ Niềm hy vọng kitô hữu tiêm vào một đà lực mới để dấn thân vào lãnh vực xã hội (số 579).
Biết chắc rằng không có thiên đàng ở trần gian này, các kitô hữu với niềm tin và hy vọng bền vững, lợi dụng thời gian hiện tại (x. Ep 5,16; Cl 4,5), và trông mong vinh quang mai hậu (Rm 8,25). Họ đương dầu với những thủ lãnh của thế giới tối tăm, chống lại các thần lực của sự dữ (Ep 6,12).
IV. Xây dựng “văn minh tình thương”
1/ Mục tiêu trực tiếp của GHXH là đề xuất những nguyên tắc và những giá trị có thể nâng đỡ một xã hội xứng hợp với con người (số 580)
Tình liên đới có thể xem như nguyên tắc căn bản của quan điểm Kitô giáo về sự tổ chức chính trị và xã hội, Tình liên đới được soi sáng bởi vị trí ưu việt của đức ái, là dấu chỉ phân biệt các môn đệ Đức Kitô. Tình yêu là trọng tâm của cách cư xử của một con người hoàn toàn nhân bản. Chân lý về tình yêu cũng có giá trị trong lãnh vực xã hội: tình yêu là sức mạnh duy nhất có thể đưa đến sự thành toàn cá nhân và xã hội, cũng như hướng dẫn lịch sử đến sự Thiện.
2/ Tình yêu phải hiện diện trong tất cả mọi tương quan xã hội (GLCG 1889). Những hoa trái của tình yêu Kitô giáo:
- tận tụy phục vụ tha nhân;
- phương dược chữa trị tính kiêu căng của thời đại;
- phương dược chữa trị tính ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa.
Tình yêu trong tương quan xã hội có thể đặt tên là “bác ái xã hội” (charité sociale), “bác ái chính trị” (charité politique).
3/ Các mối tương quan xã hội không thể nào được điều hành duy chỉ dựa trên sự công bằng (số 582).
- Đức công bằng tự nó nhằm phân phối các tài sản vật chất giữa con người (“của ai thì trả lại cho người ấy”); duy chỉ có tình yêu mới có thể hoàn lại con người cho con người.
Chính tình yêu là lý do khiến Thiên Chúa thiết lập tương quan với con người, và Thiên Chúa mong đợi nơi con người một sự đáp trả của tình yêu. Vì thế tình yêu cũng là hình thức cao quý nhất trong những mối tương quan giữa con người. Tình yêu cần trở nên linh hồn của tất cả mọi sinh hoạt của con người và kéo dài sang cả lãnh vực bang giao quốc tế. Chỉ khi nào văn minh tình yêu ngự trị thì lúc ấy nhân loại mới hưởng được nền hòa bình trường cửu.
4/ “Ai tìm cách duy trì mạng sống của mình thì sẽ mất, ai mất nó thì sẽ cứu được nó” (số 583).
Duy bác ái mới có thể thay đổi toàn diện con người. Bác ái mà không bao gồm nền tảng tự nhiên của nó là công bằng thì sẽ sai lầm. Mặt khác, bác ái không chỉ giới hạn vào các tương quan giữa con người và xã hội, xét vì hiệu năng của nó bắt nguồn từ Thiên Chúa.
“Vào lúc xế chiều, con sẽ ra trước mặt Chúa với các bàn tay trắng, bởi vì con không xin Chúa tính các việc làm của con. Tất cả mọi sự công chính của con đều là vết nhơ trước mặt Chúa. Vì thế con xin Chúa hãy dùng sự Công chính của Ngài mà khoác lên cho con, và xin đón nhận chính Tình yêu của Chúa vào chiếm hữu chính Chúa.” (Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu).
Mục II. Nhận xét
Sách Toát lược Học thuyết xã hội, sau Nhập đề, được chia làm ba phần chính: phần thứ nhất là những nguyên tắc tổng quát (chương 1-4); phần thứ hai đi vào bảy vấn đề (chương 5-11); phần thứ ba bước sang hành động (chương 12). Chương cuối cùng đã vạch ra những môi trường hoạt động cũng như “linh đạo” hoạt động xã hội.
Ý nghĩa của “kết luận” là gì? Xin thưa rằng để ôn lại lý do của việc Giáo hội lên tiếng về các vấn đề xã hội đã nói ở “nhập đề”: điều này nằm trong sứ mạng loan báo Tin mừng, loan báo kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người. Giáo huấn xã hội của giáo hội không phải là một chính sách chính trị xã hội như các học thuyết khác.
Có lẽ có một điều đáng suy nghĩ sau khi đã học hỏi chương 12: chúng ta đã biết những nguyên tắc căn bản của GHXH cũng như những phạm vi cần mang ra áp dụng (bảo vệ sự sống, phục vụ văn hóa, phục vụ kinh tế, phục vụ chính trị). Tuy nhiên, khi hoạt động thì chúng ta cần đối thoại với những học thuyết, những tôn giáo khác: chúng ta không giữ độc quyền trong những lãnh vực ấy. Bây giờ trong phần kết luận, xem ra sách TLHT muốn trình bày cái gì là độc đáo nhất của Kitô giáo, mà không ai có thể mang lại được. Thiết tưởng đó là lý do của ba điểm liên quan đến ba nhân đức đối thần: Tin - Cậy - Mến (khác với bốn nhân đức trụ mà con người có thể thủ đắc).
Chúng ta nên lưu ý. Mỗi khi nói đến các nhân đức “đối thần”, người ta thường giới hạn hoạt động của chúng ở trong nhà thờ (bởi vì chỉ liên quan đến Thiên Chúa), chứ không nghĩ rằng chúng có thể áp dụng vào đời sống hằng ngày. Ở đây, sách TLHT cho thấy ba nhân đức ấy ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống xã hội.
A. TIN là đánh giá mọi vật theo cái nhìn của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là tôn trọng trật tự luân lý do Thiên Chúa đã đặt ra. Đối với người tín hữu, đức tin giúp chúng ta nhận ra phẩm giá của con người (là hình ảnh Thiên Chúa), nhận ra một kim chỉ nam (nơi lời dạy và gương lành của Đức Kitô), và nhất là đức tin cho ta thấy ý nghĩa của cuộc đời.
B. CẬY (hy vọng).
Đức cậy giúp chúng ta có cái nhìn chân thực khi hướng về tương lai. Chúng ta không mơ tưởng sẽ có thiên đàng dưới trần gian (như Marx chủ trương), nhưng chúng ta cũng dám hy vọng ở một thế giới nhân đạo hơn, công bình hơn, dựa vào quyền năng của Thiên Chúa.
1) Trong hậu bán thế kỷ XX, một cuộc tranh luận thần học đã diễn ra liên quan đến tương lai của thế giới (xem lại chú giải chương 9, về môi sinh). Phải chăng ngày Chúa quang lâm (tận thế) đồng nghĩa với tận thế: thế giới này sẽ bị hủy diệt? Phải chăng bao nhiêu công trình xây dựng của con người sẽ bị xóa sạch hết?
Không phải thế. Việc Chúa hứa dựng nên “trời mới đất mới” không nhất thiết bao hàm tiêu hủy thế giới hiện nay, bởi vì thế giới hiện nay cũng là công trình của Thiên Chúa. Không lẽ chính Thiên Chúa sẽ phá hủy công trình của mình hay sao? Vả lại, trong thế giới bất toàn của chúng ta, Thánh Linh cũng đã gieo vào bao nhiêu mầm mống của nhân đức và ơn thánh; và chắc hẳn những sự tốt lành ấy sẽ tăng trưởng chứ không bị phá hủy. Ít nhất là “đức ái sẽ không bao giờ mai một” (1Cr 13,13).
2) Một câu hỏi khác. Chúng ta cầu xin cho “Triều đại Cha mau đến”. Liệu chúng ta có thể góp phần vào việc xây dựng Nước Chúa không?
Câu trả lời. Chúng ta cần duy trì một sự quân bình, tránh hai thái cực. Một đàng là thái độ há miệng chờ sung: triều đại Thiên Chúa sẽ đến vào lúc nào Chúa muốn, chứ chúng ta không làm gì được. Thái độ đối nghịch: chúng ta có thể xây dựng Nước Chúa, qua nỗ lực làm cho thế giới này bình đẳng huynh đệ hơn.
Thái độ quân bình (và khó) ở chỗ là chúng ta thâm tín rằng chỉ có Thiên Chúa mới có thể thực hiện triều đại của Ngài, khi mà mọi sự dữ sẽ bị đập tan (không còn tội lỗi, bệnh tật, chết chóc). Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta “những nén bạc” để góp phần vào việc kiến thiết thế giới phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Dù vậy, chúng ta không thể đồng hóa những tiến bộ khoa học kỹ thuật với sự thiết lập Nước Thiên Chúa. Như kinh nghiệm cho thấy, tiến bộ khoa học kỹ thuật có thể đưa đến sự hủy diệt con người, nếu thiếu lương tâm và luân lý[2].
C. MẾN (Caritas)
Caritas là một từ ngữ được dịch và giải thích theo nhiều nghĩa, gây ra nhiều hàm hồ: đức mến, tình yêu, tình thương, yêu thương, bác ái.
Nếu nói về nhân đức đối thần (hướng đến Thiên Chúa), thì caritas được dịch là “đức mến” hay “đức ái”; còn nếu nói đến tương quan với tha nhân thì dịch là “bác ái”. Tuy nhiên khi thánh Gioan định nghĩa “Thiên Chúa là caritas” (1Ga 4,16) thì phải dịch là “tình yêu, tình thương”, chứ không thể nói Thiên Chúa là “đức ái” hoặc “bác ái”. (Tiếng Anh cũng dịch God is love, chứ không phải God is charity).
Một cách tương tự như vậy, amor trong tiếng Latinh (amour tiếng Pháp, love tiếng Anh) cũng là một từ ngữ hàm hồ, bởi vì có thể dịch bằng nhiều từ và không phải tất cả đều đồng nghĩa: tình yêu, tình thương, ái tình, yêu thương, yêu đương, vv.
Một vấn đề tranh luận (giữa Công giáo và Marx) trong thế kỷ XIX-XX ở chỗ lấy cái gì làm chủ yếu trong đời sống xã hội: yêu thương hay công bình? Marx tố cáo các nhà tư bản (Kitô giáo) là họ tưởng rằng mình “bố thí” cho người nghèo (vì bác ái), đang khi đó là một nghĩa vụ theo công bình: các người giàu phải trả lại cho người nghèo điều mà mình đã bóc lột người khác. Vì thế, cần phải loại bỏ bác ái và và cần nhấn mạnh đến công bình mà thôi.
Trong bối cảnh ấy, ta có thể hiểu được tựa đề “xây dựng văn minh tình thương” đặt cho kết luận cuốn sách Toát lược giáo huấn xã hội của Giáo hội, do Hội đồng “Công lý và Hòa bình” xuất bản. Rút cuộc, xin hỏi: sứ mạng của Giáo hội: xây dựng “văn minh tình thương” hay “thế giới công bình”?
Đức thánh cha Bênêđictô XVI đã dành ra bốn đoạn (số 26-29) trong thông điệp Deus Caritas Est (DCE) để bàn về tương quan giữa bác ái và công bằng, đặc biệt là học thuyết xã hội của Giáo hội, thường được coi như mở đầu với thông điệp “Rerum novarum” của đức giáo hoàng Lêô XIII (ngày 15/5/1891), nhằm đưa một câu trả lời mới (res novae) về công bằng xã hội vào thời ấy. Tuy nhiên thông điệp DCE xét lại tương quan giữa bác ái và công bằng trong một bối cảnh mới mẻ hơn. Như vậy có ít là hai cách thức để bàn về tương quan giữa công bằng và bác ái: nhìn như hai nhân đức, hay như hai thể chế.
1/ Các sách luân lý cổ truyền[3] đã bàn về tương quan giữa công bằng và bác ái dựa theo bản chất của hai nhân đức.
a) Công bằng và bác ái là hai nhân đức khác biệt:
- Công bằng liên quan đến một nghĩa vụ có thể đòi hỏi theo pháp luật. Caritas (yêu thương) cũng là một nghĩa vụ nhưng dựa trên trật tự luân lý (chỉ trả lời trước mặt Chúa).
- Công bằng là một nhân đức tự nhiên. Caritas là một nhân đức siêu nhiên.
b) Nhưng hai nhân đức bổ túc cho nhau:
- Công bằng đặt cơ sở nền tảng cho mối tương quan với tha nhân; Caritas tìm cách đưa mối tương quan đến mức hoàn thiện. Công bình coi tha nhân như người khác với mình (virtus ad alterum); Caritas hướng đến sự hợp nhất với tha nhân, coi họ như chính mình.
- Yêu thương mà không tôn trọng công bằng thì đưa đến rối loạn trật tự; Công bình mà thiếu yêu thương sẽ đưa đến tàn nhẫn (summum ius summa iniuria).
2/ Thời nay, mối tương quan công bằng và bác ái đã bị xét lại do ảnh hưởng của Karl Marx. Ông đòi dẹp bỏ bác ái đi và chỉ giữ lại công bằng. Những người nghèo không cần đến bác ái, mà chỉ đòi hỏi công bằng. Theo ông, các việc bác ái (chẳng hạn như bố thí) là một chiêu bài để cho người giàu tránh né việc thiết lập công bằng, ngõ hầu trấn an lương tâm và tiếp tục bóc lột người nghèo. Đã đến lúc phải trả lại quyền lợi cho người nghèo (công bằng), chứ không phải là ban ân huệ cho họ (bác ái từ thiện).
Trong bối cảnh đó, các Kitô hữu cũng đã duyệt lại học thuyết cổ truyền về mối tương quan giữa công bằng và bác ái. Trên phương diện học lý, ngoài hai dạng cổ điển của đức công bằng (giao hoán và phân phối), người ta còn thêm một dạng mới là công bình xã hội, hoặc “liên đới”[4]. Trên phương diện điều hành, Tòa Thánh đã thiết lập Hội đồng “Công lý và Hòa bình” (Iustitia et pax) để nghiên cứu những đề tài liên quan đến công bằng xã hội, bên cạnh Hội đồng “Đồng tâm” (Cor unum) phụ trách các công tác bác ái.
Tuy nhiên, thông điệp DCE đặt lại tương quan giữa công bằng và bác ái trong một bối cảnh khác, đó là tương quan giữa Hội thánh với các cộng đồng chính trị. Mục tiêu của Nhà Nước và các cộng đồng chính trị là thực hiện công lý, trật tự công bằng. Hội thánh tôn trọng vai trò của Nhà Nước, và góp phần vào việc xây dựng công lý bằng cách soi sáng những mục tiêu của hoạt động chính trị. Dù sao sứ mạng chuyên biệt của Hội thánh là thực hiện caritas. Sứ mạng này luôn luôn cần thiết, ngay cả trong một xã hội công bằng. Hội thánh không chỉ cổ võ một trật tự Công bằng, nhưng còn tiến đến việc xây dựng một nền văn minh của Tình yêu. Con người luôn luôn cần đến tình yêu, là linh hồn của công bằng. Duy có tình yêu mới có thể biến đổi con người[5].
3/ Hoạt động “bác ái” của Hội thánh và những “tổ chức từ thiện” của xã hội
Ngày nay, ngoài những cơ cấu an sinh xã hội của Nhà Nước, còn xuất hiện nhiều cơ quan từ thiện của tư nhân, các tổ chức phi-chính-phủ (Non Governmental Organizations). Có gì khác biệt giữa cơ quan bác ái của Hội thánh và các tổ chức từ thiện ấy không?
Ở số 31, thông điệp DCE diễn tả đặc trưng của công tác bác ái Kitô giáo ở những điểm sau đây:
a) Trước hết, bác ái Kitô giáo là lời đáp trả cho một nhu cầu trong một hoàn cảnh nhất định, theo gương được nêu lên trong dụ ngôn người Samaria nhân hậu. Những ai tham gia vào công tác này cần được huấn luyện chuyên môn, nhưng nhất là cần có tầm lòng yêu thương tha nhân.
b) Hoạt động bác ái Kitô giáo thì độc lập với các đảng phái chính trị và ý thức hệ, bởi vì động lực thúc đẩy là đức mến.
c) Lòng bác ái mang tính cách vị tha, bất vụ lợi: không được thi hành bác ái để đạt những mục tiêu nào khác (chẳng hạn để chiêu dụ tín đồ). Điều này không có nghĩa là gạt Thiên Chúa ra một bên, nhưng nói cho cùng, lòng bác ái nhắm đến hạnh phúc của con người, hạnh phúc toàn diện. Dĩ nhiên, đối với người Kitô hữu, hoạt động bác ái cần được thực hiện trong linh đạo khiêm tốn phục vụ, và được nuôi dưỡng nhờ sự cầu nguyện, đặc biệt nhờ Thánh Thể là bí tích tình yêu.
Kết luận
Như vậy, tiếng nói cuối cùng là Tình thương (chứ không phải là Công bằng), với điều kiện là hiểu “Tình thương” cho đúng nghĩa của nó. Đó là lý do của thông điệp Caritas in veritate: yêu thương trong sự thật. Thế nào là “yêu thương chân thực” (caritas vera)
“Tình yêu chân thực” có thể được hiểu theo nhiều nghĩa.
1/ Tình yêu “chân thực”, đối lại với tình yêu “giả dối”.
Trong tương quan xã hội, chúng ta đã nghe biết nhiều chuyện lường gạt nhau về tình hay về tiền. Đó là một thí dụ về tình yêu giả dối; tuy nhiên Tân ước còn nói đến tình yêu chân thực theo một nghĩa sâu xa hơn. Trong thư gửi Rôma, thánh Phaolô viết: “Lòng bác ái không được giả hình, giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12, 9-11). Thánh Phaolô phát biểu lời khuyên dưới dạng tiêu cực: “tình yêu không được giả hình, giả bộ”[6], nhưng các tác giả Kitô giáo đã sớm diễn tả dưới dạng tích cực: “ubi caritas est vera, ibi Deus est”[7] (đâu mà tình yêu chân thật thì Thiên Chúa ở đấy). Thế nào là tình yêu không giả hình, tình yêu chân thật? Câu hỏi này đã gây ra khá nhiều cuộc tranh luận trong lịch sử thần học liên quan đến những khía cạnh của đức ái, cách riêng là về trật tự trong đức ái.
2/ Tình yêu chân thật: yêu bằng hành động hay yêu trong lòng?
Một hoàn cảnh xảy ra hằng ngày: khi gặp một người nghèo đói thì ta phải giảng cho họ về Thiên Chúa là tình yêu, hay phải lo cho họ chén cơm manh áo? Câu trả lời quá rõ ràng: tình yêu chân chính được diễn tả qua hành vi cụ thể chứ không phải chỉ dừng lại ở đầu môi chót lưỡi (xc. 1Ga 3, 17-18; Gc 2,15-16).
Thế nhưng sự thật không đơn giản như thế! Có bao nhiêu đại gia làm việc từ thiện để được quay phim chụp hình; như vậy đâu có phải là tình yêu chân thật! Nói khác đi, đức ái chân thật phải bắt đầu từ trong tim, rồi sau đó mới diễn tả ra hành động. Người ta lưu ý rằng trong “bài ca đức ái”, thánh Phaolô liệt kê rất nhiều đức tính của “con tim” chứ không đả động gì đến hành động: “đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7).
Nếu suy nghĩ kỹ, ta sẽ thấy chẳng có gì mâu thuẫn cả. Trong đoạn văn này, thánh Phaolô đang nói đến tình yêu agape chứ không phải bất cứ thứ tình yêu nào. Yêu chân thật là yêu với trái tim của Thiên Chúa: yêu thương giống như Chúa yêu. Ở đâu có agape như vậy thì ở đấy có Chúa hiện diện. Nếu thiếu agape thì dù có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí thì cũng chẳng ích gì!
Dĩ nhiên tình yêu agape (bắt nguồn từ con tim) phải phát sinh những hành vi cụ thể (xc. 2Cr 5,14: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi”), không những trên bình diện cá nhân mà thậm chí trên bình diện cộng đoàn nữa, như sẽ nói sau.
3/ Tình yêu chân thật: yêu tha nhân vì tha nhân, hay là yêu tha nhân vì Chúa?
Nhận xét vừa rồi đã cho chúng ta câu trả lời: cần phải yêu tha nhân vì lòng mến Chúa. Thế nhưng vào thời nay, một vấn nạn được nêu lên trong lãnh vực truyền giáo như thế này: ta giúp người nghèo chỉ vì muốn giúp đỡ họ thực tình, hay còn vì muốn chiêu dụ họ theo đạo? Phải chăng công việc từ thiện không còn nhằm đến phục vụ người nghèo, mà chỉ là một dụng cụ tuyên truyền?
Nếu suy nghĩ kỹ về bản chất của agape thì vấn nạn không khó trả lời. Chúng ta yêu người nghèo với agape của Chúa: Chúa muốn điều tốt “toàn diện” cho con người (người nghèo), cả linh hồn lẫn thể xác. Nếu ta dùng việc từ thiện để chiêu dụ người nghèo vào đạo thì tình yêu của ta trở thành lệch lạc rồi, bởi vì ta muốn điều khiển người nghèo theo ý muốn của ta, chứ không theo ý muốn (tình yêu) của Thiên Chúa (DCE số 31).
Những ý tưởng này giúp chúng ta chuẩn bị để học hỏi thông điệp Caritas in veritate.
Lm Giuse Phan Tấn Thành, OP
---------------------
[1] “Dimension théologique” (ở số 577) có lẽ không phải là “chiều kích thần học” nhưng là “quy về Thiên Chúa”. Theologia gốc Hy lạp (theos và logos) không chỉ có nghĩa là “thần học” mà còn là lời của Chúa, lời về Chúa, lời với Chúa.
[2] Xc. Thông điệp Spe salvi.
[3] Được nhắc đến trong thông điệp Caritas in veritate số 6.
[4] Iustititia commutativa, distributiva, legalis; caritas socialis; solidarietas: xem sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 2411; 1939. Sách Giáo lý cũng nói đến việc giúp đỡ người nghèo như một nghĩa vụ chứ không do lòng hảo tâm (số 2446).
[5] Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết xã hội Công giáo, (nguyên bản Compendio della dottrina sociale della Chiesa), 2003, số 580-583. Trước đó, tương quan giữa bác ái và công bình đã được đề cập ở các số 206-208.
[6] Nguyên bản Hy-lạp là an-hypokritos (không giả hình), được dịch sang tiếng Latinh là “dilectio sine simulatione”. Tính từ này còn được dùng ở 2Cr 6,6 (in caritate non ficta) và 1 Pr 1,22 (amorem non fictum).
[7] Bài ca rất phổ thông trong nghi thức rửa chân vào Thứ Năm Tuần thánh (người sáng tác được gán cho đức cha Paulinus Aquileâia k.726-804) “ubi caritas et amor ibi Deus est”; nhưng những thủ bản cổ điển viết là “ubi caritas est vera, ibi Deus est”, và Sách lễ Rôma từ ấn bản 1973 đã sửa lại, vì xem ra hợp lý hơn: caritas et amor đồng nghĩa với nhau. (Tiếng Việt dịch không sát: “đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét