Các tác
giả thường chia Giáo huấn xã hội của Giáo Hội thành nhiều giai đoạn khác nhau.
Giữa các giai đoạn này vừa có sự tiếp nối nền tảng, vừa có những đứt quãng về
phương pháp, tầm nhìn và đường hướng dấn thân. Tuy nhiên, Đức Giáo chủ Biển Đức
XVI đã lưu ý là nên ý thức rằng “không có hai mô hình khác nhau về Giáo huấn xã
hội của Giáo Hội, một tiền Công đồng và một hậu Công đồng, mà chỉ là một giáo
huấn duy nhất và nhất quán, nhưng đồng thời cũng luôn đổi mới. Cần phải để ý
đến đặc điểm của mỗi thông điệp và giáo huấn của mỗi Giáo chủ, nhưng đừng bao
giờ đánh mất cái nhìn nhất quán của toàn thể giáo huấn. Dĩ nhiên, nhất quán
không đồng nghĩa với khép kín, mà đúng hơn là trung thành năng động đối với
nguồn ánh sáng đã lãnh nhận (…). Điều đó bảo toàn đồng thời tính thường tồn
cũng như tính lịch sử của gia tài giáo huấn này, mà, với những nét đặc trưng
của nó, thuộc về Truyền thống luôn luôn sinh động của Giáo Hội”[1].
5.1- Khái niệm về Giáo huấn xã hội
Nhìn trong
tổng thể, Giáo huấn xã hội của Giáo Hội kết hợp đồng thời truyền thống với
đương đại, tính nhất quán với tính năng động, thường tồn với yếu tố lịch sử.
Nhưng trong mỗi giai đoạn lịch sử, Giáo huấn xã hội có những đặc điểm và nhịp
độ phát triển riêng, phù hợp với kinh nghiệm dấn thân của các thế hệ Kitô hữu
giữa lòng các xã hội rất khác biệt. Vào giữa thế kỷ XX, Giáo huấn xã hội của
Giáo Hội ở vào tiến trình phát triển trên diễn đàn quốc tế. Giáo Hội được nhìn
nhận như một tổ chức quốc tế có uy tín và đóng góp tích cực trong nỗ
lực cổ võ hòa bình, công lý, nhân quyền, thăng tiến con người và hợp tác giữa
các dân tộc. Có thể nói nhờ Giáo chủ Gioan XXIII, Giáo Hội đã chấm dứt giai
đoạn tháp ngà, tự mãn, khép kín để mở rộng cửa cho thế giới. Công đồng Vatican
II tiếp tục mở rộng thêm cánh cửa đó và chính thức khai mở cuộc đối thoại chân
thành với thời đại. Các vị Giáo chủ hậu Công đồng tiếp nối cuộc đối thoại cam
go, phức tạp, nhưng rất phong phú này. Đây cũng là giai đoạn Giáo Hội đưa ra
nhiều sáng kiến để xác định rõ hơn căn tính và chức năng của Giáo huấn xã hội
của Giáo Hội. Kể từ khi khối Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, Giáo huấn xã
hội Công giáo trở thành một trong những tiếng nói hiếm hoi vẫn mạnh mẽ đối diện
với chủ nghĩa tân tự do kinh tế nói riêng và chủ nghĩa tư bản nói chung, cũng
như các Nhà nước độc tài khác để bênh vực quyền lợi của con người, đặc biệt của
người nghèo, cũng như các nước chậm phát triển[2].
Trong
thông điệp “Mater et Magistra”, Đức Giáo chủ Gioan XXIII trình bày
Giáo huấn xã hội của Giáo Hội nhưthành phần côt yếu của quan niệm Kitô giáo
về con người và về cuộc sống xã hội. Tiếp nối hướng đi đó, Đức Giáo
chủ Gioan Phaolô II giới thiệu một cách ngắn gọn nguồn gốc và tiến trình của
Giáo huấn xã hội như sau: “Học thuyết xã hội của Giáo Hội bắt nguồn nơi Kinh
Thánh, khởi đi từ sách Sáng Thế, đặc biệt trong Tân Ước, và các văn kiện của
các thánh Tông đồ. Ngay từ lúc đầu nó đã là thành phần của giáo huấn Giáo Hội, của
quan niệm về con người và cuộc sống xã hội, và đặc biệt của luân lý xã hội,
được xây dựng và phát triển dần dần tùy theo nhu cầu của các giai đoạn lịch sử.
Gia sản này đã được truyền lại và khai triển qua giáo huấn của các Giáo chủ về
“vấn đề xã hội”, bắt đầu từ thông điệp Tân Sự”[3].
Thông điệp
“Quan tâm đến vấn đề xã hội” nêu rõ tính chất thần học và mục vụ
của Giáo huấn xã hội của Giáo Hội để đừng đồng hóa giáo huấn này với những gì
không thuộc bản chất của nó: “Giáo huấn xã hội không phải là con đường
thứ ba giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tập thể Mácxít, cũng không
phải là một giải pháp thay thế cho những giải pháp khác ít triệt để hơn, mà
thuộc về một thể loại riêng. Nó cũng không phải là một ý thức hệ, nhưng là một
hình thức diễn tả chính xác những kết quả suy tư nghiêm túc về các thực tại
phức tạp của cuộc sống con người, trong xã hội và trong bối cảnh quốc tế, dưới
ánh sáng đức tin và truyền thống của Giáo Hội. Mục đích chính là phân tích
những thực tại đó xem chúng phù hợp hay dị biệt với giáo huấn của Tin Mừng về
con người và thiên chức làm người, vừa mang chiều kích trần thế vừa có tính
siêu việt, để hướng dẫn hành vi của các Kitô hữu”[4].
Sách Giáo
lý của Hội Thánh Công giáo cũng nhắc lại quá trình hình thành và khái niệm của
Giáo huấn xã hội của Giáo Hội một cách ngắn gọn như sau: “Giáo huấn
xã hội của Giáo Hội được khai triển vào thế kỷ XIX khi Tin Mừng tiếp xúc với xã
hội kỹ nghệ tân tiến, với các cơ cấu mới để sản xuất các sản phẩm tiêu thụ, với
khái niệm mới về xã hội, về quốc gia và quyền bính, với các hình thức mới của
lao động và quyền sở hữu. Sự phát triển giáo huấn kinh tế và xã hội của Giáo
Hội xác nhận giá trị vững bền của quyền giáo huấn, cũng như cho thấy ý nghĩa
đích thực của Truyền thống luôn luôn sống động và tích cực (…) Giáo huấn
xã hội của Giáo Hội tập hợp các giáo huấn được nối kết với nhau theo mức độ
Giáo Hội giải thích các biến cố suốt dọc lịch sử, dưới ánh sáng mạc khải của
Lời Chúa, và sự trợ giúp của Chúa Thánh thần (…). Giáo huấn xã hội của Giáo Hội
đề ra những nguyên tắc suy tư, những tiêu chuẩn phán đoán, những đường hướng
hành động”[5].
Tông thư “Giáo
Hội tại châu Á ” cũng quan niệm Giáo huấn xã hội như một “toàn thể
nguyên lý để suy tư, những tiêu chuẩn để phán đoán và những định hướng hành
động cho các Kitô hữu”. Đối với Tông thư, “điều thiết yếu là làm sao để các
Kitô hữu dấn thân trong lãnh vực thăng tiến nhân loại có một kiến thức vững
chắc về toàn bộ giáo huấn quý báu này và coi nó như thành phần nguyên vẹn của
sứ vụ rao giảng Tin Mừng (...). Các Kitô hữu có trách nhiệm lãnh đạo trong Giáo
Hội cũng như ngoài xã hội, đặc biệt các giáo dân đang nắm trách nhiệm trong đời
sống xã hội, cần được đào tạo vững chắc về lãnh vực này, để họ có thể tác động
trên xã hội dân sự cũng như các cơ cấu của nó bằng chất men của Tin Mừng. Giáo
huấn xã hội của Giáo Hội không những cảnh báo các Kitô hữu giữ chức vụ lãnh đạo
về trách nhiệm của họ, mà còn đem đến cho họ những hướng dẫn để cổ võ sự phát
triển con người và giúp họ tránh khỏi những quan niệm sai lầm về con người”[6].
Trong
chiều hướng đó, Giáo huấn xã hội của Giáo Hội không phải là một ý thức hệ, một
lý thuyết xã hội hay một hệ thống kinh tế thuần túy, mà là quan điểm thần học,
đặc biệt thần học luân lý, được áp dụng vào lãnh vực xã hội. Vì thế, Giáo huấn
xã hội của Giáo Hội không chủ trương đưa ra những giải pháp kỹ thuật cho vấn đề
chậm tiến[7] và cũng chẳng đề xuất các chương trình xã hội hay
chính trị cụ thể[8]. Sâu xa hơn, Giáo huấn xã hội của Giáo Hội chính là “một
cách thế loan báo Tin Mừng” cho con người hôm nay, bởi vì
“làm chứng cho tình yêu của Đức Kitô ngang qua các công tác phục vụ công lý,
hòa bình và phát triển là thành phần của loan báo Tin Mừng”[9].
Trong
thông điệp “Tình yêu trong chân lý”, một thông điệp được ban hành
vào lúc thế giới đang trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, Đức
Giáo chủ Biển Đức XVI đã trình bày những suy tư thần học sâu xa về tương quan
giữa kinh tế với đạo đức, tình yêu với sự thật trong giai đoạn toàn cầu hóa.
Ngài tái xác nhận rằng Giáo Hội “không có các giải pháp kỹ thuật để cống hiến
cho nhân loại và cũng chẳng chủ trương can thiệp vào chính trị của các Quốc
gia. Nhưng Giáo Hội phải thi hành sứ vụ phục vụ sự thật trong mọi hoàn cảnh
không gian và thời gian để kiến tạo một xã hội theo chiều kích nhân bản, phù
hợp với phẩm giá và ơn gọi của con người”[10].
Mọi người
đều biết một trong những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng kinh tế này là
do khủng hoảng đạo đức trong thị trường tài chính. Để đưa nhân loại ra khỏi
cuộc khủng hoảng về giá trị hiện nay, Đức Biển Đức XVI đề nghị cần nối kết chặt
chẽ giữa chân, thiện, mỹ. Ngài coi bác ái như nhân đức trụ cột của Kitô giáo và
như “hoàng đạo của Giáo huấn xã hội. Tất cả trách nhiệm và hành động dấn thân
được giáo huấn này vạch ra đều bắt nguồn từ tình yêu, mà theo giáo huấn của Đức
Kitô, là tổng hợp tất cả Lề Luật» (số 2). Nhưng tình yêu không đơn độc, mà
nối kết với chân, thiện, mỹ. Nhất là với chân lý để trở thành Tình yêu
trong chân lý (Caritas in veritate): “Chỉ trong chân lý, tình yêu
mới tỏa sáng và có thể được sống một cách chân thành. Chân lý là ánh
sáng đem lại ý nghĩa và giá trị cho tình yêu. Ánh sáng này đồng thời là ánh
sáng của lý trí và của niềm tin, nhờ đó tri thức có thể đạt tới chân lý tự
nhiên lẫn siêu nhiên của tình yêu: lý trí lãnh hội được ý nghĩa của hiến dâng,
tiếp đón và hiệp thông. Thiếu vắng chân lý, tình yêu sẽ chao đảo trong cảm
tính” (số 3). Và ngài cảnh giác chúng ta rằng “một Kitô giáo của bác ái mà vắng
bóng chân lý thì dễ dàng bị lẫn lộn với một mớ tình cảm tốt đẹp, tuy hữu ích
cho cuộc sống chung, nhưng chỉ ở bên lề xã hội” (số 4).
Chính vì
vậy, luôn luôn cần thiết sự tương tác giữa chân lý và tình yêu: “Chân lý cần
được tìm kiếm, khám phá và diễn tả trong nhiệm cục của tình yêu, nhưng ngược
lại tình yêu cũng phải được hiểu, lượng giá và thực hành dưới ánh sáng của chân
lý. Như vậy, không những chúng ta sẽ giúp cho bác ái được chân lý soi chiếu,
nhưng còn phải cố làm cho chân lý khả tín hơn, bằng cách chứng tỏ khả năng
chứng thực và thuyết phục của nó trong cuộc sống xã hội cụ thể» (số 2).
Chính vì
vậy, Giáo huấn xã hội của Giáo Hội chính là “Caritas in veritate in re
socialis: loan báo chân lý tình yêu của Đức Kitô trong xã hội. Giáo
huấn này là một hành động phục vụ của đức ái, nhưng trong chân lý. Chính chân
lý bảo vệ và diễn tả sức mạnh giải phóng của bác ái trong những biến cố luôn
luôn mới mẻ của lịch sử (...). Thiếu vắng chân lý, thiếu vắng lòng tin và thiếu
vắng tình yêu đối với sự thật, thì chẳng còn lương tâm cũng như trách nhiệm xã
hội và hoạt động xã hội trở thành miếng mồi ngon của tư lợi cũng như của lôgíc
quyền bính, với hậu quả làm băng hoại xã hội, nhất là đối với một xã hội đang
trong tiến trình toàn cầu hóa và ở vào giai đoạn khó khăn như hiện nay” (số 5).
5.2- Những nét tiêu biểu
Bởi vì
Giáo huấn xã hội của Giáo Hội không phải là ý thức hệ, mà là thành phần của
thần học luân lý và một cách thế để loan báo Tin Mừng trong thế giới đương đại,
nên nó có phương pháp, đặc điểm và chiều kích riêng biệt. Xin lược kê một số
nét tiêu biểu:
5.2.1- Đề cao phẩm giá con người
Giáo huấn
xã hội của Giáo Hội đặc biệt đề cao phẩm giá con người và yêu cầu không bao giờ
được sử dụng con người như phương tiện của bất cứ mục tiêu chính trị hay cơ cấu
trần thế nào. Con người luôn luôn phải là mục đích của tất cả các chương trình
kinh tế, xã hội, chính trị. Thật thế, “trật tự của sự vật phải lệ thuộc vào
trật tự của nhân vị, chứ không ngược lại. Chính Đức Kitô đã đưa ra nguyên tắc
này khi Người xác quyết: ngày hưu lễ được thiết lập vì con người, chứ không
phải con người vì ngày hưu lễ”[11]. Cũng chính Đức
Kitô đã đặt giới răn căn bản của Kitô giáo nơi tình yêu đối với Thiên Chúa và
đồng loại.
5.2.2- Đức Kitô cứu độ trọn vẹn con người
Cuộc Hiển
linh của Đức Kitô cho ta thấy công trình cứu độ của Thiên Chúa bao trùm toàn
diện lịch sử nhân loại. Thánh Phaolô diễn tả chân lý này một cách trang trọng,
dưới hình thức phủ định: “Tôi xác tín rằng: bất chấp cái chết hay sự sống,
thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh
nào, trời cao hay vực thẳm hoặc bất cứ một loài thọ tạo nào khác, chẳng có gì
tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39). Giáo chủ Gioan Phaolô II kết luận một cách thật
hữu lý: “Qua cuộc nhập thể, Thiên Chúa đã ban cho cuộc sống nhân loại các chiều
kích mà Người đã dự định trao ban cho con người ngay từ nguyên thủy”[12].
Dĩ nhiên,
con người nói đây không phải chỉ là một cá thể lẻ loi, mà là một hữu thể xã
hội, trong tương quan với Đấng Khác, với người khác, với cộng đồng nhân loại và
với vũ trụ vạn vật. Công đồng Vatican II tuyên bố: “Thiên Chúa đã dựng nên con
người không phải để sống riêng rẽ, nhưng để tạo nên một cộng đồng”. Cũng thế,
“Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu độ con người cách riêng rẽ, nhưng Người
muốn qui tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết Người trong chân lý và phụng
sự Người trong thánh thiện”[13]. Xã hội tính này không cho phép chúng ta giản lược con
người vào một “cá nhân đơn độc” hay chỉ đề cao “linh hồn” mà bỏ quên thân xác
và các chiều kích xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị...
5.2.3-
Tính thực tiễn
Một nét
tiêu biểu khác của Giáo huấn xã hội của Giáo Hội là tính thực hành.
«Giáo huấn này thiết yếu hướng đến hành động, phát triển cùng nhịp với những
đổi thay của lịch sử. Vì thế, dù dựa trên những nguyên tắc luôn có giá trị vững
bền, thì cũng có những phán đoán bất tất. Giáo huấn ấy không phải là một hệ
thống đóng kín, nhưng luôn mở ra với các vấn đề mới mẻ không ngừng xảy đến. Nó
cần đến sự đóng góp của tất cả những đoàn sủng, kinh nghiệm và khả năng khác
nhau»[14]
Nói cách
khác, giáo huấn này không chỉ mang tính lý thuyết, mà còn là lời mời gọi dấn
thân và đưa ra phương pháp giúp các tín hữu trả lời cho nhu cầu hiện thực của
mỗi giai đoạn lịch sử. Nó đòi hỏi sự tham dự tích cực của tất cả những ai có
trách nhiệm về một lãnh vực nào đó trong cuộc sống xã hội như: nhà cầm quyền,
người điều hành xí nghiệp, công nhân viên, chuyên gia kinh tế, xã hội…
Trong Kitô giáo cũng có một thứ “chủ nghĩa siêu nhiên cực đoan” khá
phổ biến. Chủ nghĩa này triệt để phủ nhận giá trị tự tại của con người sau tội
nguyên tổ. Chống lại chủ nghĩa đó, Giáo huấn xã hội xác quyết rằng bất chấp tội
nguyên tổ vẫn hiện diện một trật tự của đời sống xã hội, gắn liền với bản tính
xã hội của con người theo ý muốn của Thiên Chúa. Việc phát triển chiều kích xã
hội nơi con người, tái lập giá trị đạo đức và định hướng cuộc sống theo ánh
sáng của Tin Mừng là một trong những mục đích của Giáo huấn xã hội.
Các Kitô hữu, đặc biệt các giáo dân, phải tích cực dấn thân xây dựng một xã hội
tiến bộ, nhân bản và phù hợp với đòi hỏi của Tin Mừng.
5.2.4- Vai trò của môi trường sống
Dưới viễn
ảnh cứu độ, các điều kiện xã hội có một tầm quan trọng đặc biệt, do sự lệ thuộc
của con người vào môi trường sống. Thực vậy, con người “nhiều khi xa lánh điều
thiện và bị lôi cuốn theo điều ác, do môi trường xã hội họ đang sinh sống và bị
ngụp lặn trong đó ngay từ thuở thiếu thời”[15]. Việc đảo lộn trật tự mà Thiên Chúa đã thiết lập là nguyên
nhân của biết bao khổ đau và bất công trong xã hội[16]. Những điều kiện sống tồi tệ, cảnh lầm than khốn khổ và
tình trạng khốn cùng tại nhiều nước đang phát triển là một thách đố cho nhân loại
hôm nay. Vấn đề nhức nhối này không thể chỉ giải quyết bằng hình thức phê bình
xã hội hay thực hành bác ái từ thiện, mà cần cải tổ hay biến đổi chính cơ cấu
xã hội theo các nguyên tắc của Giáo huấn xã hội của Giáo Hội.
Cuộc chiến
đấu trường kỳ gian khổ chống lại nghèo đói, bệnh tật, lầm than, chiến tranh và
bạo lực là một nghĩa vụ Kitô giáo. Hành động buông xuôi và an phận không hề
đồng nghĩa với thái độ phó thác cho Thiên Chúa. Trái lại, đó là thái độ vô
trách nhiệm hay một thứ an tĩnh quá khích, có nguy cơ biến đức tin Kitô giáo
thành một thứ “thuốc phiện ru ngủ dân chúng”.
5.2.5- Quan niệm về cuộc sống
Giáo huấn
xã hội là “thành phần nguyên vẹn của quan niệm Kitô giáo về cuộc sống” bởi vì
nó tiếp nối và đào sâu mầu nhiệm nhập thể của Đức Giêsu. Khi mặc lấy thân phận
con người, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã đi vào lòng đời và xã hội nhân loại. Do
đó, nếu Kitô hữu coi thường khả năng định hướng của đức tin đối với cuộc sống
công cộng là có nguy cơ phản bội Con-Thiên-Chúa-làm-Người. Các
phạm trù đối kháng “Giáo Hội và trần gian”, “Giáo Hội và Nhà nước”, “ân sủng
và tự nhiên”, “đức tin và lý trí” mang một ý nghĩa đặc biệt trong thần
học Kitô giáo, nhưng không có nghĩa là Giáo Hội phải triệt để ở ngoài trần
gian. Giáo Hội không chỉ giới hạn nơi hành động dấn thân đối thoại với thế giới
từ vị thế bên lề xã hội, mà còn hiện diện trong lòng xã hội như “men trong
bột” (Mt 13,33), “muối cho đời” (Mt 5,13) và “ánh sáng
cho trần gian” (Mt 5,14).
Giáo huấn
xã hội của Giáo Hội không thuần túy phân tích các sự kiện và phê phán các hiện
tượng tiêu cực nơi cơ cấu xã hội mà thôi. Vượt lên trên hành động phân tích và
giải thích các sự kiện, Giáo huấn xã hội của Giáo Hội còn muốn “công bố một
tương lai mới mang đầy ý nghĩa”[17]. Đây là một chân trời mới vừa mở rộng tầm nhìn, vừa mời
gọi con người không ngừng ước mơ và không ngừng vươn tới một thế giới tốt đẹp
hơn. Để đạt tới mục tiêu này mọi người phải nỗ lực không ngừng, nhưng không thể
chỉ trên khả năng nhân loại, mà còn trông chờ nơi tác động của Thánh Linh, theo
kiểu nói của Giám mục Oscar Romero: “Chúng ta là những ngôn sứ của một tương
lai không chỉ thuộc về chúng ta mà thôi”.
5.2.6- Trách nhiệm về thế giới
Sau khi
nhắc lại tuyên bố của Công đồng Vatican II theo đó “người có tín ngưỡng và
người không có tín ngưỡng nói chung đều đồng ý ở điểm này: vạn sự trên Trái đất
phải hướng về con người như trung tâm và đỉnh cao” (GS 12), Đức Biển Đức XVI
viết tiếp: «Đối với các tín hữu, thế giới không phải là kết quả của tình cờ hay
của tất định, mà là do kế hoạch của Thiên Chúa. Do đó, trách nhiệm của các tín
hữu là phải nối kết cố gắng của mình với cố gắng của tất cả những người thành
tâm thiện chí, thuộc các tôn giáo khác hay không có tín ngưỡng, để thế giới của
chúng ta thực sự phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa: sống như một gia đình
dưới ánh mắt của Đấng Tạo Hóa”[18].
Chính
trong viễn tượng đó, Công đồng Vatican II rất có lý khi tuyên bố: “Nỗi vui mừng
và niềm hy vọng, những buồn khổ và âu lo của con người hôm nay, đặc biệt là của
người nghèo và những ai sầu khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, buồn khổ và âu lo
của các môn đệ Đức Kitô. Không có gì đích thực nhân loại mà lại không có tiếng
vang trong cõi lòng người môn đệ Đức Kitô” (GS 1).
5.3- Vấn đề danh xưng
Đứng trên
phương diện lịch sử, diễn ngữ “Học thuyết Xã hội” hay “Giáo huấn
xã hội” chưa xuất hiện trong thông điệp xã hội đầu tiên “Tân sự” (1891)
của Đức Leô XIII. Bốn mươi năm sau, Đức Piô XI sử dụng lẫn lộn một
số diễn ngữ sau đây: “Học thuyết về vấn đề xã hội và kinh tế” (QA.,5);
“Học thuyết về đề tài xã hội và kinh tế” (QA., 8); “Xã hội học Công
giáo” (QA., 9,20,22) và “Triết lý xã hội Công giáo” (QA., 109).
Mãi đến
thời Đức Piô XII thuật ngữ “Học thuyết Xã hội” hay “Học thuyết
Xã hội Công giáo” mới chính thức đi vào ngôn ngữ của giáo quyền, thay
thế cho các diễn ngữ trước đó như “Xã hội học Công giáo” hay “Triết
lý xã hội Kitô giáo”. Kể từ đó, danh xưng “Học thuyết xã hội Công
giáo” được giới thiệu như một cấu trúc lý thuyết đích thực và riêng
biệt, bao gồm hai nguồn chính: tự nhiên và siêu nhiên.
Thuật ngữ
“Học thuyết xã hội”, nhất là quan niệm thần học khai sinh ra diễn
ngữ này, đã gây ra nhiều cuộc tranh luận. Suốt dọc các thập niên 60 và 70, giới
Công giáo tranh luận nhiều về ý nghĩa và tầm quan trọng của “Học thuyết Xã
hội”. Theo một số nhà phê bình, “Học thuyết xã hội Công giáo” chẳng qua là một
thứ ý thức hệ để cạnh tranh với các ý thức hệ hiện hành khác là chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa cộng sản. Họ cho rằng Giáo Hội muốn dùng “Học thuyết xã hội”
như một mô hình tiền chế và một dự phóng ý thức hệ của “con đường thứ
ba” để cạnh tranh với các ý thức hệ và chế độ chính trị hiện hành.
Tại các
nước đang phát triển, mô hình “Học thuyết Xã hội Công giáo” nói trên càng bị
chỉ trích gay gắt hơn, bởi vì những phạm trù tây phương được sử dụng và giới
thiệu trong đó không thích hợp với tình trạng xã hội, kinh tế, chính trị và văn
hóa của
các nước này. Ngoài ra, đứng trên bình diện chuyên môn, làm gì có một mô hình
xã hội, kinh tế và chính trị phổ quát! Làm gì có một “Học thuyết Xã hội Công
giáo” tương tự như “Học thuyết tín lý hay luân lý Kitô giáo”!
Sau những
tranh luận gay gắt ban đầu, hàng Giáo phẩm đã tiếp thu một số phê bình xây
dựng. Quan niệm “thần học lưỡng diện” và diễn ngữ “Học thuyết Xã hội Công giáo”
được giải thích một cách khác hơn và cũng ít sử dụng hơn. Chúng ta còn gặp thấy
diễn ngữ này nhiều lần trong thông điệp “Mater et Magistra” (1961) của Đức
Gioan XXIII, nhưng chỉ một lần duy nhất trong “Pacem in terris”(1963). Tại Công
đồng Vatican II, quan niệm thần học lưỡng diện và diễn ngữ “Học thuyết Xã
hội” không còn xuất hiện trong hiến chế “Gaudium et Spes”, trừ hai
trường hợp ngoại lệ ở số 23 và số 76.
Đức Phaolô
VI thường sử dụng diễn ngữ “Giáo huấn xã hội” hoặc “Huấn quyền xã hội của Giáo
Hội” thay cho danh xưng “Học thuyết xã hội”. Nhưng Đức Gioan Phaolô II sử dụng
một cách hầu như không phân biệt các hạn từ: Học thuyết Xã hội, Huấn
quyền xã hội, Giáo huấn xã hội... Ngài tái xác quyết giá trị và tầm
quan trọng của “huấn quyền xã hội” của Giáo Hội (CA., 3b), nhưng đồng thời cũng
xác nhận rằng “Giáo Hội không có giải pháp kỹ thuật để cống hiến cho vấn
đề chậm phát triển. Thêm vào đó, Học thuyết xã hội của Giáo Hội
cũng không phải là con đường thứ ba, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng
sản”[19]. Kể từ Đức Gioan Phaolô II, Giáo huấn xã hội mang chiều
kích liên ngành và có khả năng thích nghi cao để hội nhập vào các môi trường
văn hóa, xã hội, kinh tế và chính trị rất khác khác biệt[20]. Trong viễn cảnh đó, sẽ khai mở một cuộc đối
thoại mới, phong phú và mang nhiều ý nghĩa giữa Giáo Hội với nhân loại ở thời
toàn cầu hóa. Thông điệp “Caritas in veritate” của Đức Biển Đức là
một đối thoại sâu sắc giữa Giáo huấn xã hội của Giáo Hội với các nhà lãnh đạo
chính trị, kinh tế, tài chánh… ở giai đoạn khủng hoảng kinh tế – tài chánh nặng
nề này.
Từ thập
niên 80’ của thế kỷ XX, tư tưởng và hoạt động của người Công giáo trong lãnh
vực xã hội đã đánh dấu một bước tiến khả quan. Nhiều bản văn của Đức Gioan
Phaolô II đã giúp giải toả một số ngộ nhận, đồng thời xác định chức năng và
lãnh vực của Giáo huấn xã hội. Giáo huấn xã hội của Giáo Hội được đặt trong bối
cảnh sứ vụ giáo huấn của Giáo Hội dưới ánh sáng của Tin Mừng và qua những kinh
nghiệm dấn thân, được tích lũy từ ngàn đời của các Kitô hữu. Vượt qua một số
hiểu lầm về những gì thực ra không phải là bản chất của nó, Giáo huấn xã hội
của Giáo Hội “trình bày, cho thời đại chúng ta, những suy tư của Giáo Hội về
thực tại xã hội, bằng cách thẩm định các thực tại này dưới ánh sáng của Tin
Mừng và đề nghị những nguyên tắc chỉ dẫn nếp sinh hoạt thực tiễn trong xã hội.
Đây là việc áp dụng thần học, đặc biệt thần học luân lý, vào các vấn đề đạo đức
nổi cộm trong xã hội con người, một cách cơ bản. Học thuyết này vừa được khởi
hứng từ quan điểm thần học, vừa dựa trên thực tế của xã hội, xét theo phương
diện nó đề nghị một quan điểm Kitô giáo về cuộc sống nhân loại qua những hoàn
cảnh được nghiên cứu bằng suy tư của lý trí và đóng góp của khoa học nhân văn”[21].
Khác với
các giáo huấn của Giáo Hội về đức tin và phong hóa, Giáo huấn xã hội của Giáo
Hội có “tính năng động”, không ngừng canh tân và thích nghi, bởi vì nó là một
tiến trình chiếu sáng của niềm tin vào thực tại xã hội luôn biến
đổi. Do đó, trên bình diện xã hội – chính trị – kinh tế, không nên đồng hóa
hạn từ “doctrina” (học thuyết, đạo lý) theo nghĩa chuyên môn trong
tín lý với hạn từ “doctrina” được sử dụng trong Giáo huấn xã hội
của Giáo Hội. Ở trường hợp sau cùng này, hạn từ “doctrina” (học
thuyết) không đồng nghĩa với “giáo huấn tín lý” và cũng chẳng mang
tính chất vô ngộ, mặc dù cũng được tuyên bố bởi thẩm quyền chính thức của Giáo
Hội.
Chính
trong ý nghĩa đó, nhiều tác giả đề nghị thay thế thuật ngữ “Học thuyết xã
hội Công giáo” bằng các diễn ngữ tương tự, nhưng khác biệt về ý nghĩa và chính
xác hơn về nội dung, như: “Giáo huấn xã hội của Tin Mừng”, “Giáo huấn xã hội
của Công giáo” hoặc “Huấn quyền xã hội của Giáo Hội”. Các thần
học gia tên tuổi về vấn đề xã hội như linh mục Dominique Chenu, O.P[22] và linh mục J.-Y. Calvez,SJ. đề nghị chọn diễn ngữ “Giáo
huấn xã hội” thay thế cho diễn ngữ “Học thuyết Xã hội” để
tránh ngộ nhận và phù hợp với thực tế hơn. Bởi vì, như linh mục Y. Calvez đã
nhận định một cách hữu lý: “Huấn quyền xã hội của Giáo Hội là một câu trả lời
lịch sử cho vấn đề lịch sử”. Do đó, Giáo huấn xã hội của Giáo Hội có “tính năng
động” và “thời sự”, lệ thuộc rất nhiều vào tiến trình lịch sử, những biến thiên
của vấn đề lịch sử và những đổi thay của thời cuộc. Các thần học gia của Châu
Mỹ Latin cũng đề nghị thay thế“Học thuyết xã hội” bằng “Giáo
huấn xã hội” hay “Huấn quyền xã hội”, vì cho rằng quan niệm của
Giáo Hội về vấn đề xã hội chưa đủ tính hệ thống và khoa học để gọi là một học
thuyết.
Hai yếu tố
xác định bản chất của Giáo huấn xã hội của Giáo Hội là: tính chất mục vụ và
điều kiện lịch sử của các vấn đề xã hội. Do đó, khác với “Giáo huấn Tín lý
của Giáo Hội”, Giáo huấn xã hội của Giáo Hội không vô ngộ và cũng
chẳng hề bất di bất dịch, xác định một lần cho mãi mãi, trái lại nó lệ thuộc
rất nhiều vào những biến thiên của điều kiện văn hóa, kinh tế, chính trị, xã
hội... của mỗi giai đoạn lịch sử. Trong quyển sách này, chúng tôi thường dùng danh
xưng “Giáo huấn xã hội”, nhưng một đôi khi cũng sử dụng từ “Học
thuyết xã hội” vì muốn tôn trọng nguyên nghĩa của bản văn.
5.4- Vấn đề phương pháp
Bên cạnh
vấn đề danh xưng, còn có vấn đề phương pháp luận và mối tương quan với thế giới
hiện đại. Như chúng ta đã biết, tư tưởng xã hội Kitô giáo khai sinh ở giai đoạn
tiền hiện đại hóa và Giáo huấn xã hội của Giáo Hội xuất hiện tại vùng đất
tương đối chậm tiến của châu Âu, nên trong giai đoạn đầu thường có khuynh hướng
lý tưởng hóa và phổ quát hóa những hoàn cảnh đặc biệt của cuộc sống nông thôn,
nền văn hóa tiền kỹ nghệ, tập tục tiền chủ nghĩa tư bản với những mô hình chính
trị, kinh tế, xã hội của một thời đã qua. Chính vì vậy, Giáo huấn xã hội của
Giáo Hội đã gặp khá nhiều khó khăn trong việc hiểu và giải thích hiện tượng xã
hội – kinh tế ở thời hiện đại và hậu hiện đại. Nhưng kể từ giữa thế kỷ XX, Giáo
huấn xã hội đã thực hiện nhiều cuộc canh tân để hiểu và đối thoại hữu hiệu với
thế giới hôm nay.
Vấn đề
canh tân phương pháp đóng một vai trò quan trọng trong việc phân tích và phê
phán thực tại trần thế, cũng như các trào lưu kinh tế – xã hội. Trong tiến
trình phát triển của Giáo huấn xã hội của Giáo Hội, chúng ta có thể chia làm ba
giai đoạn chính, dựa theo phương pháp đã được sử dụng.
5.4.1- Phương pháp diễn dịch
Trong các
văn kiện của 60 năm đầu tiên, được soạn thảo trong bối cảnh và dưới ảnh hưởng
của phái tân Kinh viện,phương pháp diễn dịch đóng vai trò chủ đạo.
Phương pháp triết học này khởi đi từ những nguyên tắc của luật tự nhiên hay
những ý niệm về một xã hội lý tưởng nào đó (theo quan điểm siêu hình, triết
học, thần học và đạo đức học) để áp dụng đồng đều vào những hoàn cảnh cụ thể,
rất khác biệt và rất đa dạng, ở mọi thời và mọi nơi.
Giới hạn
tất nhiên của nó đã quá rõ ràng: người ta đi từ một cái nhìn lý thuyết, trừu
tượng, phiến diện và giản lược về thực tại xã hội để đưa ra những kết luận
nhiều khi cũng rất không tưởng. Thường thường người ta khởi đi từ những “nguyên
tắc xã hội” để đi đến việc áp dụng cụ thể, hoặc từ một dự án lý tưởng về xã hội
để đưa ra những chỉ dẫn đồng đều cho những hoàn cảnh phức tạp, đa dạng và luôn
thay đổi.
Tiến trình
diễn dịch này giả thiết rằng người ta có thể xây dựng một xã hội tốt theo kiểu
mẫu đẹp được rút ra từ các nguyên tắc và định hướng của Giáo huấn xã hội của
Giáo Hội. Theo phương pháp diễn dịch này, một số người còn nghĩ rằng có thể xây
dựng, ở mọi thời và mọi nơi, một cách đồng nhất, những xã hội an hòa, công bằng
và liên đới, thích hợp với trật tự ước muốn của Đấng Tạo Hóa.
Trên thực
tế, phương pháp diễn dịch đã sử dụng phạm trù xã hội và văn hóa của một hoàn
cảnh lịch sử và địa lý nhất định, rồi phóng chiếu sang những thực tại xã hội và
văn hóa khác. Phương pháp này ít để ý đến nguồn gốc lịch sử và văn hóa của một
số quan niệm, cũng như mô hình, nếp sống của một thời đại và môi trường văn hóa
nhất định đã khai sinh ra chúng. Thay vì nghiên cứu và tiếp xúc với thực tại
khách quan để sau đó có thể đưa ra những nhận định cụ thể và riêng biệt cho mỗi
hoàn cảnh, người ta lại thường khởi đi từ những ý niệm trừu tượng rồi tìm cách
áp dụng một cách đồng đều vào những hoàn cảnh phức tạp, đa dạng và luôn đổi
thay.
Các văn
kiện của Đức Leô XIII, chẳng hạn, thường trình bày khái niệm “Quốc gia Kitô
giáo” như một mô hình lý tưởng cho thế giới Công giáo. Đức Piô XI đề nghị
biểu dương “Vương quyền xã hội của Đức Kitô” như đặc điểm của dự án
tương lai cho một xã hội công bằng và nhân ái hơn. Đức Piô XII nhấn mạnh đến “văn
minh Kitô giáo”như tiêu chuẩn cho dự án của một xã hội tân tiến và nhân
đạo. Đây là những mô hình tiền hiện đại và, hơn nữa, mang nặng sắc thái phuơng
Tây. Chính vì vậy, đôi khi, nó không những trở thành lạc hậu đối với xã hội Tây
phương thời hiện đại, mà còn trở thành một “đề nghị hơi phi lý” đối với các
nước đang phát triển, thuộc các nền văn hóa khác.
5.4.2- Phương
pháp quy nạp
Kể từ
thông điệp “Mater et Magistra” (Mẹ và Thầy) và Công đồng Vatican II,
phương pháp quy nạp được sử dụng để thay thế cho phương pháp diễn dịch. Hai yếu
tố được đưa vào để lấp đầy những lỗ hổng của phương pháp diễn dịch, đó là: tái
khám phá chiều kích lịch sử của các hiện tượng xã hội và đề cao tính ưu việt
của niềm tin Kitô giáo. Một mặt, Giáo huấn xã hội của Giáo Hội công nhận rằng
mỗi hiện tượng xã hội mang dấu ấn văn hóa và cần phải hiểu trong một bối cảnh
lịch sử riêng biệt; mặt khác, đức tin đã mang lại cho chúng ta những chiều
kích, ý nghĩa và cái nhìn hoàn toàn mới, có khả năng làm đảo lộn tất cả mọi sự.
Chính vì vậy, chúng ta không thể coi đức tin như một cái gì “thêm vào” hay bổ
túc cho một công trình xây dựng trên luật tự nhiên.
Đặc điểm của phương pháp quy nạp là khởi đi từ những điều kiện
lịch sử phức tạp, phong phú và cá biệt, mà không thể tiên thiên giản lược vào
các mô hình lý tưởng hay trừu tượng. Tuy nhiên, lịch sử được nối kết một cách
thâm sâu với mạc khải Kitô giáo, bởi vì mạc khải luôn bén rễ trong lịch sử,
trong khi đó lịch sử có thể được dẫn đưa tới mức độ viên mãn trong Đức Kitô.
Có ba bước hay ba giai đoạn quan trọng trong việc thực hiện phương
pháp quy nạp này: Xem (quan sát) – Xét (phê phán) – Làm (hành động). Đây là một
tiến trình thực tiễn, mở rộng và luôn được canh tân, bổ túc liên tục:
* Xem: Giai đoạn
quan sát và tìm hiểu tình trạng xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo
của môi trường khảo sát. Cố gắng nhận diện và đọc các “dấu chỉ thời đại”. Giai
đoạn này cần đến sự đóng góp quan trọng của khoa học kỹ thuật và khoa học nhân
văn.
* Xét: Giai đoạn
đánh giá, lượng định và phê phán thực tại xã hội dưới ánh sáng của Tin Mừng.
Chính Tin Mừng trở thành tiêu chuẩn cuối cùng của sự phán đoán và đánh giá các
thực trạng xã hội. Đức tin có thể đảm nhận vai trò tiêu chuẩn, cho
phép chúng ta nhận diện những sai lầm, những thiếu sót và những tà ý trong các
kế hoạch, cũng như trong các cơ chế hiện hành, đồng thời đóng vai trò
ngôn sứ, sáng tạo những cái mới và thúc đẩy con người hướng tới lý
tưởng phát triển toàn diện.
* Làm: Các Kitô
hữu phải dấn thân hoạt động để thực hiện những nguyên tắc và tiêu chuẩn của
Giáo huấn xã hội của Giáo Hội trong môi trường xã hội – chính trị. Chúng ta
không thể đạt được những biến đổi sâu xa và bền vững, nếu chưa thực hiện được
những biến đổi về cơ cấu chính trị, xã hội, kinh tế, luật pháp. Giáo huấn xã
hội của Giáo Hội yêu cầu các Kitô hữu, đặc biệt các giáo dân, phải thực sự trở
nên “muối”, “men” và “ánh sáng” trong đời thường,
trong nghề nghiệp và trong môi trường xã hội.
* Ước mơ: Hành
động này cũng chưa phải là hành động chung kết, trái lại chỉ là một tổng hợp
tạm thời trong tiến trình tìm kiếm không ngừng những giải pháp khác tốt và mới
hơn. Đây là một tiến trình liên tục đi tới, thăm thẳm và diệu vợi. Chính vì
vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, một số tác giả đề nghị nên thêm yếu
tố “ước mơ”. Chính “ước mơ” này sẽ mở đường cho sáng
tạo và chắp cánh cho tương lai.
Phương
pháp quy nạp phát xuất từ phong trào Thanh-lao-công (JOC) vào thập
niên 50. Đức Gioan XXIII sử dụng nó trong thông điệp “Mater et
Magistra” (1961). Người viết: “Việc chuyển đạt những nguyên tắc và
những chỉ thị thành những hành động cụ thể thường qua ba giai đoạn: khảo sát
hoàn cảnh, đánh giá hoàn cảnh đó từ nguyên tắc chỉ đạo của Giáo huấn xã hội của
Giáo Hội; tìm hiểu và quyết định điều gì có thể và phải làm để áp dụng những
nguyên tắc và chỉ thị nói trên vào hoàn cảnh cụ thể, theo phương thế và mức độ
mà chính những hoàn cảnh đó cho phép hoặc đòi hỏi. Ba giai đoạn này thường được
diễn tả qua ba diễn ngữ: xem, xét, làm”[23].
Công đồng
Vatican II đã bổ túc và kiện toàn phương pháp này. Lịch sử được nhìn như điểm
khởi hành cho mọi giải thích đúng đắn về thực trạng xã hội và cứ
điểm thần học qua đó chúng ta có thể nghe được lời mời gọi khẩn thiết
của cộng đồng. Có thể coi đây là một ý thức trách nhiệm của các Kitô hữu, một
khả năng nhận định tốt về hoạt động xã hội, một phương pháp mở, được cải tiến
không ngừng qua tương quan giao thoa giữa ba hay bốn bước nói trên.
Giáo chủ
Phaolô VI đào sâu phương pháp này bằng thái độ phê phán nhằm tạo cầu nối hữu
hiệu giữa bước chuyển tiếp đánh giá dưới ánh sáng đức tin sang
dấn thân thực hiện. Thật vậy, bước chuyển tiếp khó khăn này luôn đòi hỏi thái
độ phê phán trung thực về thực tại, việc sử dụng đúng đắn các trung gian kỹ
thuật, trình độ chuyên môn cao trong lãnh vực chính trị – xã hội, tinh thần dấn
thân cho công bằng xã hội và khả năng sáng tạo.
Bản văn
quan trọng sau đây của Tông thư “Octogesima adveniens”(1971) giúp chúng ta hiểu
rõ hơn những gì đã trình bày ở trên:
“Đối
diện với tình trạng quá khác biệt, chúng tôi khó có thể đưa ra một lời tuyên bố
duy nhất và đề xuất một giải pháp có giá trị phổ quát. Ngoài ra, điều đó không
phải là tham vọng của chúng tôi và cũng chẳng thuộc sứ vụ của chúng tôi. Các
cộng đồng Kitô giáo có trách nhiệm phân tích một cách khách quan tình trạng của
đất nước họ, soi sáng tình trạng này bằng ánh sáng của Tin Mừng, rút ra những
nguyên tắc để suy tư, tiêu chuẩn để phán đoán và những chỉ thị hành động từ
Giáo huấn xã hội của Giáo Hội (...). Trách nhiệm của các cộng đồng Kitô giáo là
phải cụ thể hóa – với sự trợ lực của Chúa Thánh thần, trong sự hiệp thông với
các Giám mục, và trong sự đối thoại với các anh chị em Kitô hữu khác, cũng như
với tất cả những người thành tâm thiện chí – những chọn lựa và những dấn thân
thích hợp để thực hiện các biến đổi khẩn cấp và cần thiết về lãnh vực xã hội,
chính trị và kinh tế. Trong việc tìm kiếm những thay đổi này, trước tiên các
Kitô hữu cần làm sống lại sự tín thác nơi sức mạnh và nơi tính độc đáo của
những đòi hỏi Tin Mừng. Tin Mừng không bị vượt qua do sự kiện đã được loan báo,
viết và sống trong một bối cảnh văn hoá–xã hội khác biệt”[24].
Đây là một
trong những bản văn căn bản đề cập đến nhiệm vụ canh tân và thích nghi không
ngừng của Giáo huấn xã hội của Giáo Hội để trả lời cho những thách đố muôn mặt
của thời đại. Thần học gia Dominique Chenu, O.P. nhận định một cách sâu sắc khi
bình luận về định hướng mới này như sau: “Tám mươi năm sau Rerum Novarum, Đức
Giáo chủ Phaolô VI đưa ra một lời tuyên bố, bên ngoài xem ra sẽ tiếp nối Giáo
huấn xã hội, nhưng trong thực tế đã thay đổi triệt để phương pháp được áp dụng
trước đây: Không còn một thứ “Học thuyết Xã hội” được giảng dạy với mục đích áp
dụng vào các hoàn cảnh đổi thay, mà trái lại chính các hoàn cảnh này đã trở
thành “cứ điểm thần học” cho việc nhận định, được hướng dẫn bởi ánh sáng của
Tin Mừng. Giáo huấn xã hội không còn sử dụng diễn dịch nữa, mà là phương pháp
quy nạp. Tính đa nguyên không chỉ là một hệ quả do hoàn cảnh phức biệt của các
Kitô hữu trong thế giới, mà là một nguyên tắc được rút ra từ chính bản chất của
Giáo Hội. Thật vậy, Giáo Hội được định nghĩa trên căn bản của sự hiện diện
trong lòng thế giới, chứ không như một thực tại tuyệt đối khép kín nơi bản sắc
cơ cấu của mình. Chính trần gian là nơi các Kitô hữu nhận được lời mời gọi của
Tin Mừng”[25].
5.4.3- Phương
pháp tổng hợp
Khó có thể
xác định phương pháp mà Đức Gioan Phaolô II đã sử dụng. Xem ra, ngài sử dụng
đồng thời phương pháp quy nạp lẫn nhân học Kitô giáo.
Thật vậy,
tiếp nối hướng đi của Công đồng Vatican II, Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh đến
vai trò của nhân chủng học Kitô giáo. Ngài đề cao vai trò trung tâm của Mầu
nhiệm Đức Kitô, Đấng mạc khải Thiên Chúa cho con người và vén mở mầu nhiệm
về con người cho chính con người. Giáo huấn xã hội của Giáo Hội cần nối kết chặt
chẽ với quan niệm thần học về con người và về mỗi một hữu thể nhân loại đối với
mầu nhiệm của Đức Kitô.
Theo Gioan
Phaolô II, “cuộc đối chất giữa đức tin và xã hội sẽ được giải quyết trong mối
tương quan biện chứng giữahình ảnh con người nơi một vài chương
trình chính trị, kinh tế và xã hội hôm nay với “hình ảnh con người
mới” phát xuất từ viễn ảnh Kitô giáo. Điều đó có nghĩa là để đưa ra
một phê phán từ viễn quan Kitô giáo về thế giới lao động, trước tiên phải xem
xét thực trạng của lao động từ quan điểm của con người: đâu là ý nghĩa, nỗi
nhọc nhằn, khả năng biến đổi, những
giới hạn và hy vọng dưới góc độ nhân chủng học và đâu là những yếu
tố đổi mới đến từ niềm tin Kitô giáo, qua trung gian của huấn quyền xã hội của
Giáo Hội.
Đối diện với một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mà nguồn gốc sâu xa
của nó nằm ở khủng hoảng đạo đức trong thị trường tài chánh, Đức Biển Đức XVI coi “Tình yêu trong chân lý” là một
thách đố lớn đang đặt ra cho nhân loại. “Nguy hiểm của thời đại chúng ta nằm ở
chỗ sự đồng lệ thuộc giữa người với người và giữa các quốc gia không tương ứng
với sự tương tác giữa đạo đức lương tâm và kiến thức, mà kết quả đáng lẽ ra
phải là một sự phát triển đích thực nhân bản. Chỉ có bác ái được ánh
sáng lý trí và đức tin chiếu sáng mới có thể đạt tới những mục tiêu
mang giá trị nhân bản và nhân bản hóa. Việc chia sẻ của cải và tài nguyên, từ
đó đưa đến phát triển đích thực, không thể chỉ được đảm bảo do tiến bộ kỹ thuật
và do những tương quan thuần túy thỏa hiệp, nhưng do sức mạnh của tình yêu chiến
thắng điều ác bằng điều thiện và biết mở rộng cánh cửa cho tương quan hỗ tương
của lương tâm và tự do”.
Giáo chủ
Biển Đức XVI tái xác nhận nguyên tắc truyền thống theo đó Giáo Hội không có
những giải pháp cụ thể thuộc lãnh vực kinh tế – chính trị để cống hiến cho nhân
loại. Tuy nhiên, Giáo Hội luôn luôn có “sứ vụ chân lý” phải chu toàn
trong mọi không gian và thời gian. “Sự trung thành với con người đòi hỏi trung
thành với chân lý, vì chỉ duy chân lý đảm bảo cho tự do và khả
năng phát triển con người toàn diện. Vì thế, Giáo Hội kiếm tìm chân
lý, rao giảng không mệt mỏi và nhận diện nó ở bất cứ nơi nào nó hiện diện. Đối
với Giáo Hội, sứ vụ chân lý là một sứ vụ không thể khước từ. Giáo huấn xã hội
của Giáo Hội là một chiều kích đặc biệt của việc rao giảng này: đó là phục vụ
chân lý giải phóng. Mở rộng cửa cho chân lý, bất cứ nó từ đâu đến, Giáo huấn xã
hội của Giáo Hội sẵn sàng đón nhận chân lý, thu gom những mảnh vụn thường bị
phân tán vào trong tổng thể và đưa chân lý ấy vào cuộc sống thay đổi không
ngừng của xã hội con người và của các dân tộc”[26].
5.5- Trước thách đố mới của thời đại
Những nét chấm phá ở trên cho thấy Giáo huấn xã hội của Giáo Hội
đã canh tân và thích nghi không ngừng về tầm nhìn, phương pháp, hình thức tiếp
cận, cách thế suy tư cũng như định hướng hành động để trả lời cho những thách
đố mới của thời đại. Từ ngày khai sinh cho đến nay, Giáo huấn xã hội đã đạt
được nhiều tiến triển rõ rệt nhờ phương pháp tiếp cận
thực tế không ngừng đổi mới, cách thế suy tư ngày càng chín muồi hơn, cũng như
giải pháp đề nghị ngày càng phổ quát và cận nhân tình hơn.
Kể từ thông điệp “Mẹ và Thầy”, Giáo
huấn xã hội của Giáo Hội đã sáng suốt phân biệt ba cấp độ khác nhau: a)- Nguyên
tắc suy luận; b)- Tiêu chuẩn phán đoán và c)- Định hướng hành động. Những
nguyên tắc suy tư luôn hàm chứa giá trị bền vững, còn các phán đoán phải tùy
thuộc vào hoàn cảnh nhất thời, trong khi đó định hướng hành động lại thiên biến
vạn hóa, vì lệ thuộc vào rất nhiều yếu tố: văn hóa, lịch sử, nhân văn, kinh tế,
chính trị, xã hội... Chính vì vậy, theo Công đồng Vatican II, hai người Công
giáo cùng một niềm tin, cùng chân thành phục vụ Giáo Hội và hăng say dấn thân
phục vụ nhân loại như nhau, nhưng rất có thể sẽ có những lựa chọn cụ thể khác
nhau trong lãnh vực kinh tế, chính trị, xã hội …
Nhưng,
nhân loại đã bước vào thiên niên kỷ thứ ba. Cuộc cách mạng thông tin, toàn cầu
hóa, nền kinh tế tri thức... đang biến đổi sâu rộng không những cơ cấu chính
trị, mô hình kinh tế, tổ chức xã hội, mà ngay chính nếp sống, lối nghĩ và tất
cả bộ mặt của thế giới. Nhiều thách đố mới đang đặt ra cho nhân loại nói chung
và cho Giáo Hội nói riêng.
Trước
những biến đổi quá nhanh và quá sâu rộng của thời hiện đại, nhiều cố gắng đổi
mới trước đây đã trở thành lạc hậu. Một số sáng kiến trong quá khứ đã cống hiến
những đóng góp rất tích cực, hôm nay đã bị thời gian đào thải. Nếu tiếp tục
phương pháp, tiêu chuẩn và tâm thức cũ chắc chắn Giáo huấn xã hội không thể đạt tới một phân tích khách quan và đầy đủ
về xã hội hôm nay, cũng như không thể trả lời cho các vấn đề sôi bỏng của thời
đại.
Phải
chăng, một lần nữa Giáo huấn này cần tìm ra đường hướng đối thoại mới giữa đức
tin và văn hóa? Đây là hai chiều kích căn bản khác biệt nhau, nhưng không trực
tiếp đối chọi nhau. Bởi vì, nói cho cùng, Nước Thiên Chúa không đồng hóa với
bất cứ chế độ chính trị hoặc cơ cấu xã hội nào, tuy nhiên cũng không tuyệt đối
ở bên ngoài hay bên trên xã hội trần thế, mà thực sự đang hiện diện ở trong và
ở giữa cuộc đời.
[2] Xem Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý và Hòa
bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội
Công giáo, Sđd., 1-19.
Ông Kagefumi Uemo, Đại sứ Nhật Bản cạnh Tòa Thánh Vatican,
đã nhận định rằng Tòa Thánh có bốn đặc điểm đầy ấn tượng sau đây:
* Đặc điểm thứ nhất, Tòa Thánh Vatican
có một thế giá hay uy tín luân lý được tôn trọng không những bởi người Công
giáo, mà còn bởi nhiều vị lãnh đạo của các quốc gia không Công giáo.
* Đặc
điểm thứ hai, ông nhìn Tòa Thánh Vatican như một cơ quan quốc tế, giống như
Liên Hiệp Quốc và nhìn Đức Giáo Chủ như vị Tổng Thư ký của Liên Hiệp Quốc,
nhưng đây là một cơ quan được xây dựng trên nền tảng tôn giáo.
* Đặc
điểm thứ ba, Toà Thánh Vatican có một mạng lưới liên kết chặt chẽ, ăn rễ sâu
vào các địa phương, với trung tâm được đặt tại Vatican.
* Đặc điểm thứ tư, Tòa Thánh có
một sức mạnh truyền thông, qua đài Phát Thanh Vatican, báo Osservatore Romano
và nhiều phương tiện kỹ thuật truyền thông khác để phổ biến sứ điệp của Giáo
Hội đến mọi nơi trên thế giới.
Theo ông, Vatican rất độc
đáo và gây nhiều ấn tượng vì lập trường vô tư và cương quyết trước những vấn đề
luân lý xã hội và chính trị quốc tế (www.zenit.org/23-8-2007).
[9] Biển Đức XVI, Tình yêu trong chân lý, số 15. Xem
Phaolô VI, Evangelium vitae, số 29,31; Gioan Phaolô II, Quan tâm đến vấn đề xã hội, số 41;
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét