Đoạn này gồm
có ba khoản: 1/ Cựu ước: sứ mệnh lao động vào lúc tạo dựng. 2/ Tân ước: đức
Kitô gương mẫu lao động. 3/ Nghĩa vụ làm việc dựa theo các thánh tông đồ và các
giáo phụ.
A. Nghĩa vụ
khai khẩn và bảo tồn trái đất
1. Trong
chương trình của Đấng Tạo Hoá, các vật thụ tạo được dựng nên để phục vụ con
người (số 255).
- Cựu ước
trình bày Thiên Chúa như là Đấng Tạo Hoá quyền năng (St 2,2)
- Thiên Chúa
nặn lên con người theo hình ảnh của ngài và mời gọi con người canh tác trái đất
(St 1,28).
- Con người
được đặt làm quản lý vũ trụ, nhưng không có quyền khai thác vũ trụ một cách vô
trách nhiệm.
2. Lao
động là một điều kiện của con người ngay từ lúc khai nguyên, trước khi sa ngã.
Vì thế lao động không phải là một sự trừng phạt hoặc là một lời chúc dữ cho con
người (số 256). Lao động trở thành nặng nhọc vất vả do tội lỗi của ông Ađam và
bà Evà (St 3,6-8). Con người phải tùng phục Thiên Chúa trong việc quyết định
điều gì là tốt hay xấu. Con người không có quyền thống trị tuyệt đối trên vạn
vật. Dù sao, kế hoạch của Thiên Chúa vào lúc khai nguyên vẫn không thay đổi:
con người được mời gọi canh tác và giữ gìn vũ trụ.
3. Lao
động là một điều thiết yếu đối với con người, nhưng nguyên uỷ và cứu cánh của
con người là Thiên Chúa, chứ không phải là lao động (số 257). Cần phải tôn
trọng lao động, bởi vì nó là nguồn gốc của giàu có và phong lưu. Nó là một dụng
cụ hữu hiệu để chống lại sự nghèo nàn (Cn 10,4). Tuy nhiên đừng để cho lao động
trở thành ngẫu tượng. “Thà rằng ít tiền của mà liêm khiết, còn hơn là giàu sang
mà thiếu công bằng” (Cn 16,8).
4. Tột
đỉnh của giáo huấn của Kinh thánh về lao động là lệnh truyền phải nghỉ ngơi
ngày sabát (số 258). Nó mở ra cho con người viễn ảnh của một sự tự do hoàn
toàn, vào ngày Sabát vĩnh cửu (Dt 4,9-10). Sự nghỉ ngơi cho phép con người được
nhắc nhớ và sống lại những công trình của Thiên Chúa trong việc tạo dựng và cứu
chuộc, và để tạ ơn ngài.
Cảm nghiệm về
ngày sabát là thành lũy chống lại nạn làm nô lệ cho lao động và chống lại tất
cả mọi hình thức khai thác bóc lột. Ngoài “ngày sabát” hằng tuần, Cựu ước còn
có chế độ “năm sabát” theo chu kỳ bảy năm (Xh 23,10-11), trong đó, người giàu
hạn chế quyền khai thác tài sản nhằm giúp đỡ người nghèo; điều này cũng nhắc
nhớ rằng việc thu tích tài sản của một thiểu số có thể đưa đến việc truất hữu
tài sản của nhiều người khác1.
B. Đức
Giêsu, một con người làm việc
1. Trong
các bài giảng, Đức Giêsu đã dạy dỗ chúng ta hãy biết quý trọng sự làm việc (số
259). Chính Người đã nêu gương làm việc tay chân trong xưởng thợ mộc. Người lên
án thái độ của người tôi tớ lười biếng (Mt 25,14-30), và khen ngợi người tôi tớ
trung thành và không ngoan (Mt 24,46).
Người diễn tả
sứ mệnh của mình như là một công tác (làm việc): “Cha của tôi vẫn làm việc và
chính tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Người cũng diễn tả sứ mệnh của các môn đệ
như là những người làm việc trong mùa gặt của Chúa (Mt 9,37-38). “Người thợ
đáng hưởng tiền lương của mình” (Lc 10,7).
2. Đức
Giêsu dạy con người đừng trở thành nô lệ cho lao động (số 260). Tiên vàn con
người hãy lo cứu rỗi linh hồn mình (Mc 8,36). Đừng vì tìm kiếm lợi lộc mà xao
lãng Nước Thiên Chúa và công lý của Ngài.
3. Ý
nghĩa cao quý nhất của lao động ở chỗ hoạt động để giải phóng khỏi sự dữ, thực
hành tình huynh đệ và chia sẻ, nhờ đó giúp cho nhân loại tiến về ngày Sabát
vĩnh cửu (số 261). Đức Giêsu nỗ lực hoạt động không ngừng để giải thoát con
người khỏi bệnh tật, đau khổ và cái chết. “Ngày sabát được làm ra cho con
người, chứ không phải con người được làm ra cho ngày sabát” (Mc 2,27).
4. Trong
các văn phẩm, thánh Phaolô và thánh Gioan mở ra những viễn tượng mới của công
cuộc tạo dựng (số 262). Vạn vật là một công trình tuyệt tác của Ba ngôi Thiên
Chúa (Ga 1,3; 1 Cr 8,6; Cl 1,15-17). Vũ trụ không phải là một khối hỗn mang
nhưng là một kiệt tác. Con người được mời gọi hãy chiêm ngắm kỳ công của Thiên
Chúa, và tham gia bằng những việc làm của mình. Những vất vả lao nhọc khi làm
việc mang giá trị cứu độ nếu biết kết hợp với Thánh giá của đức Kitô (số 263).
C. Bổn phận
làm việc
1. Các
Kitô hữu cần phải sống đời lao động giống như cung cách của đức Kitô. (Số 264).
Mọi người phải làm việc, chứ không ăm bám người khác (2 Tx 3,7-15; 6,12). Cần
phải bày tỏ tình liên đới qua việc chia sẻ những hoa trái của việc làm. Mỗi
người lao công đều đáng hưởng tiền lương (Gc 5,4).
2. Các
giáo phụ không coi lao động như là “công việc của nô lệ” nhưng như là “việc làm
của con người” (số 265). Nhờ làm việc mà con người cai quản vũ trụ với Thiên
Chúa, và làm chủ thế giới cùng với Ngài. Sự ăn không ngồi rồi gây thiệt hại cho
con người, còn hoạt động thì làm lợi cho thân xác và tinh thần. Người Kitô hữu
làm việc cho bản thân và gia đình của mình, cũng như cho người nghèo. Theo
thánh Ambrôsiô, mỗi người thợ là bàn tay của đức Kitô, Người tiếp tục tạo dựng
và làm lành cho tha nhân.
3. “Ora
et labora”2:
cầu nguyện và làm việc! (số 266). Nhờ đức mến định hướng, việc làm trở nên cơ
hội chiêm niệm.
1 Như
vậy đối với Kinh thánh, sự làm việc là một “vinh quang” (chứ không phải là một
hình phạt) bởi vì được cộng tác với Đấng Tạo hóa. Tuy nhiên, do tội lỗi, lao
động thường bị tổn thương: do lòng tham lam khai thác vũ trụ cách bừa bãi, hoặc
coi lao động như thần tượng, hay bóc lột sự lao động của tha nhân.
2 Đây
là phương châm của luật thánh Biển đức, phân chia thời khóa biểu giữa thời gian
phụng tự và thời gian lao động. Tuy nhiên phương châm này cũng được giải thích
theo nghĩa là con người cần phải biết hợp tác với ơn thánh Chúa: cần biết cầu
nguyện, bởi vì tất cả mọi sự tuỳ thuộc vào Chúa; cần biết làm việc, bởi vì tất
cả tuỳ thuộc vào nỗ lực của chúng ta. Xem Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo số
2834.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét