Trang

Thứ Ba, 17 tháng 7, 2012

VI. Nhà Nước và các cộng đồng tôn giáo


      Có hai điểm chính: một, tương quan giữa Nhà Nước với các tôn giáo nói chung; hai, tương quan với Giáo hội Công giáo nói riêng. Nên biết là Giáo hội Công giáo mang tính độc đáo không những về đạo lý mà còn về tổ chức pháp lý nữa (một thực thể công pháp quốc tế).
      A. Tự do tín ngưỡng[1], một quyền lợi căn bản của con người
      1/ Công đồng Vaticanô II đã đưa Giáo hội vào việc cổ võ tự do tín ngưỡng (số 421).
      - Tuyên ngôn Dignitatis humanae khẳng định quyền lợi của các cá nhân và cộng đồng được hưởng sự tự do dưới khía cạnh xã hội và dân sự trong lãnh vực tín ngưỡng.
      - Đây là một quyền lợi gắn với bản tính con người. Phẩm giá nhân vị và bản chất của việc tìm kiếm Thiên Chúa đòi hỏi cho hết mọi người không bị cưỡng bách trong phạm vi tín ngưỡng, dựa trên nguyên tắc: “Chân lý tự nó có sức thu hút, chứ không do áp lực bên ngoài”.
      - Xã hội và Nhà Nước không được phép cưỡng bách một người phải hành động trái với lương tâm của mình, cũng không được phép ngăn cản không được hành động theo lương tâm của mình.
      - Tự do tín ngưỡng không có nghĩa là tha hồ đi theo sự sai lầm, cũng không cung cấp cho sự sai lầm được hưởng quyền lợi quảng bá (GLCG 2108).
      2/ Tự do lương tâm và tự do tín ngưỡng liên quan đến con người xét như cá nhân và như cộng đồng (số 422).
      Quyền tự do tín ngưỡng phải được nhìn nhận trong hệ thống pháp luật như là một quyền lợi công dân, nhưng nó không phải là một quyền lợi vô giới hạn. Việc hành sử quyền này cần được xác định dựa theo sự khôn ngoan chính trị và những đòi hỏi của công ích, qua những quy tắc pháp lý phù hợp với trật tự luân lý khách quan.
      3/ Một tôn giáo có thể được Nhà Nước công nhận cách đặc biệt do những liên hệ lịch sử và văn hóa đặc thù (số 423). Việc công nhận này không được gây ra sự kỳ thị về dân sự hay xã hội đối với các nhóm khác.
      Quyền tự do tín ngưỡng bị xâm phạm ở nhiều quốc gia.
      B. Giáo hội Công giáo và cộng đồng chính trị: độc lập và hợp tác
      1/ Độc lập và tự trị
      Cộng đồng chính trị và Giáo hội đều độc lập và tự trị trong lãnh vực riêng của mình (số 424). Đó là hai thực thể khác biệt xét theo bản tính bởi vì theo đuổi những mục đích riêng biệt:
      - Mục đích của Giáo hội: thỏa mãn những đòi hỏi tinh thần của các tín đồ của mình.
      - Mục đích của cộng đồng chính trị: công ích trần thế.
      Giáo hội tôn trọng sự tự trị hợp pháp của trật tự dân chủ. Giáo hội không đủ thẩm quyền để đánh giá cơ cấu hiến định của một cộng đồng chính trị.
      Giáo hội chỉ quan tâm đến các chương trình chính trị khi chúng có liên hệ đến tôn giáo và luân lý.
      2/ Hợp tác
      Sự tự trị giữa Giáo hội và cộng đồng chính trị không loại trừ mọi hình thức hợp tác (số 425)
      - Cả hai đều nhằm phục vụ ơn gọi cá nhân và xã hội của cũng những con người như nhau.
      - Giáo hội và cộng đồng chính trị không có mục đích ở nơi chính mình, nhưng cả hai đều phục vụ con người, một bên xét như là công dân, bên kia xét như là Kitô hữu. Sự phục vụ sẽ trở nên hữu hiệu hơn nếu đôi bên tìm một đường lối hợp tác lành mạnh.
      3/ Giáo hội có quyền lợi được nhìn nhận tư cách pháp lý của mình (số 426).
      Sứ mạng của Giáo hội bao trùm toàn thể thực tại của con người. Giáo hội liên đới với nhân loại và lịch sử của nó.
      Giáo hội đòi hỏi quyền tự do phát biểu để bảo vệ những quyền lợi căn bản của con người hoặc phần rỗi các linh hồn. Đây là những tự do mà Giáo hội yêu sách:
      - tự do phát biểu: giảng dạy
      - tự do thi hành phụng tự
      - tự do tổ chức nội bộ với những luật lệ riêng
      - tự do lựa chọn, đào tạo, bổ nhiệm và thuyên chuyển các nhân viên của mình
      - tự do xây dựng các cơ sở tôn giáo, và có tài sản thích hợp cho hoạt động của mình
      - tự do thành lập hiệp hội nhằm mục đích tôn giáo, giáo dục, văn hóa, y tế, bác ái.



[1] Liberté religieuse có thể dịch là tự do “tín ngưỡng”, hay tự do “tôn giáo”; trên thực tế các thuật ngữ này không đồng nghĩa, như sẽ nói trong mục II.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét