1/
Đứng đầu các sự hàm hồ trong tiếng Việt cũng như tiếng Tây là câu hỏi: chính trị là gì?
“Chính
trị” là từ ngữ được sử dụng hằng ngày, đặc biệt là các cơ quan truyền thông xã
hội, nhưng chắc chắn là không phải hết mọi người đều hiểu như nhau. Có người
cho rằng làm chính trị có nghĩa là tham gia quyền bính. Có người lại cho rằng
chỉ trích Nhà nước cũng làm chính trị rồi, và thậm chí ai không ủng hộ Nhà nước
cũng là làm chính trị! Thử hỏi Chính trị
là gì?
Nếu
xét theo từ ngữ Hán Việt, thì “chính”
là làm cho ngay, còn “trị” là sắp đặt
công việc; vì thế “chính trị” là trông
coi sắp đặt trong nước để trị cho yên (Lê Gia, Tiếng nói nôm na, trang 141).
Bộ
Từ điển bách khoa Việt Nam (tập I, Hà
Nội 1995, trang 478) định nghĩa chính trị như là “Toàn bộ những hoạt động có
liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp
xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền
lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ
chức, nhiệm vụ nội dung hoạt động của nhà nước”.
Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học
1997) cung cấp đến 5 nghĩa của từ “chính trị”:
1/ Những vấn đề về tổ chức và
điều hành bộ máy nhà nước trong nội bộ một nước, và về quan hệ về mặt nhà nước
giữa các nước với nhau. 2/ Những hoạt động của một giai cấp, một chính đảng,
một tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền điều hành bộ máy nhà nước. 3/
Những hiểu biết về mục đích, đường lối, nhiệm vụ đấu tranh của một giai cấp,
một chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước. 4/
Những hoạt động nhằm nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng (...) 5/ Sự
khéo léo đối xử để đạt mục đích mong muốn.
Ta có thể gom lại 5 nghĩa vừa nói vào hai
ý tưởng chính: một, chính trị liên quan đến việc điều khiển bộ máy nhà nước;
hai, chính trị sử dụng mưu lược.
Thực ra thuật
ngữ “chính trị” được dùng để chuyển dịch hạn từ politique trong các tiếng Pháp và Anh. Theo nguyên gốc Hy-lạp, politicos liên quan đến việc tổ chức cai
quản thành phố (polis). Dĩ nhiên là
có nhiều quan điểm về “chính trị”, tức là về việc cai quản. Nói chung, thời Cổ
điển và Trung đại, các triết gia thảo luận về những đường hướng tối ưu để đạt
được “thiện ích” cho các công dân. Nói khác đi, chính trị được gắn liền với
luân lý đạo đức. Vào thời cận đại, chính trị được coi như một thủ đoạn để chiếm
đoạt quyền bính cũng như để hành sử và
nắm giữ quyền bính. Quyền bính trở thành mục tiêu của chính trị, chứ không phải
là phương tiện để thực hiện công ích nữa. Lát nữa, chúng ta sẽ trở lại vấn đề
từ ngữ: quyền bính, quyền lực, quyền hành.
-
“Chính quyền” cũng là một từ ngữ hàm
hồ. Có lúc được hiểu như là những người đang nắm quyền cai trị (đối lại với
“nhân dân”). Có khi “chính quyền” được dùng theo nghĩa đối nghịch với “ngụy
quyền”. Lúc khác, “chính quyền” được dùng như là đối lại với “giáo quyền”
(quyền đời / quyền đạo).
2/
Việc chuyển ngữ từ tiếng Tây sang tiếng Việt
Một
từ ngữ trong tiếng Tây có thể chuyển sang nhiều từ trong tiếng Việt; nhưng lắm
khi các từ ấy không đồng nghĩa (chúng tôi gọi tắt “tiếng Tây” là tiếng Pháp và
tiếng Anh: cả hai đều bắt nguồn từ tiếng La-tinh)
- Politique
được dịch là “chính trị”. Thực ra đây là một từ gốc Hy-lạp politicos bởi polis có nghĩa là “thành phố” (thí dụ
Constantinopolis là thành phố của Constantinô); politicos liên quan đến việc tổ chức cai quản thành phố. Tuy nhiên
vào thời cổ, polis tượng trưng cho tổ chức hành chánh quy mô
(khác với thôn quê hoang dã), vì thế đôi khi polis cũng có nghĩa tương đương với “quốc gia” hiện đại, đặc biệt
khi dịch ra tiếng Latinh là civitas,
mà vết tích còn thấy nơi tác phẩm của thánh Augustinô De civitate Dei hoặc Cité du
Vatican, được hiểu về vương quốc,
quốc gia). Ta cũng thấy trường hợp tương tự trong tiếng Pháp (cité, citoyen) và tiếng Anh (city, citizen).
-
Peuple (Anh: people) có thể hiểu là “dân tộc” (thí dụ: dân tộc Việt), nhưng cũng
có thể hiểu là “nhân dân”, đối lại với “chính quyền”.
-
Nation: quốc gia (nationalité, nationality: quốc tịch).
Gốc bởi động từ Latinh nasci (sinh
ra); tiếng Pháp có từ ngữ natif (sinh
quán) cũng giống như native trong
tiếng Anh.
-
Etat (Anh: State): có khi dịch là “quốc gia” có khi dịch là “nhà nước”. Xét
theo từ ngữ “Quốc gia” với “Nhà Nước” đồng nghĩa (một bên là chữ Hán, một bên
là chữ Việt: quốc là nước, gia là nhà), nhưng trên thực tế thì không hẳn như
vậy. Danh xưng của Hoa kỳ là Etats Unis
(United States of America) thì chỉ có thể dịch là “Hợp chủng quốc” (quốc gia)
chứ không thể gọi là “Liên bang nhà nước”.
Nation và Etat đều là “quốc gia” (thí dụ ONU, Liên hợp quốc): có gì khác biệt
giữa hai danh từ ấy không? Chúng ta sẽ bàn sau, chỉ cần lưu ý rằng về từ ngữ état (state) chỉ có nghĩa là: tình trạng, trạnh thái.
-
Authorité (Anh: authority) được dịch là “quyền bính, quyền hành, quyền lực”. Tuy
nhiên ba danh từ này cũng được dùng để dịch pouvoir
(Anh: power). Tuy nhiên authorité và pouvoir không hoàn toàn đồng nghĩa, có thể so sánh với “uy thế” và
“quyền lực”: người không còn uy thế thì thích sử dụng quyền lực! Điều trớ trêu là
trong tiếng Việt “quyền” cũng được dùng để dịch từ droit (Anh: right); trên
thực tế, “quyền lực” (pouvoir) của
nhà nước thường xung khắc với “quyền lợi” (droit)
của người dân: người dân đòi quyền lợi, nhà nước đem quyền lực ra đàn áp: cả
hai đều đòi “quyền”! Về điểm này tiếng Tây rõ hơn tiếng Việt.
-
Droit trong tiếng Pháp không chỉ có
nghĩa là “pháp luật” nhưng còn có nghĩa là “công lý”. Nói khác đi, droit
thì rộng hơn là loi. Vì thế khi dịch Etat de droit là “Nhà Nước pháp trị” thì
sẽ gây hiểu lầm là “Nhà Nước dùng luật để trị dân”, đang khi mà thuật ngữ muốn
nói rằng: “Nhà Nước phải ở dưới công lý” (chứ không phải ở trên công lý). Tiếng
Anh không có từ tương đương với Droit (right
chỉ có nghĩa là “quyền lợi”).
- Liberté religieuse: tự
do “tín ngưỡng” hay tự do “tôn giáo”? Thoạt tiên xem ra “tín ngưỡng” và “tôn
giáo” đồng nghĩa, nhưng sự thực không phải như vậy. Tín ngưỡng là niềm tin chủ
quan, cá nhân; còn tôn giáo thì mang tính cách cộng đồng. Hầu như đâu đâu cũng
có tự do tín ngưỡng (ai muốn tin gì thì tin), nhưng muốn thực hành tự do tôn
giáo thì cần phải xin phép!
Sở dĩ các từ ngữ vừa nói
mang tính hàm hồ bởi vì chúng thay đổi ý nghĩa trải qua dòng lịch sử. Đoạn tiếp
theo đây muốn làm sáng tỏ điều ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét