1/
Định chế gia đình không cố định
Dựa
vào thuyết tiến hóa, có học thuyết cho rằng vào lúc khởi thuỷ con người sống
theo bầy đàn, chồng chung vợ chạ. Dần dần tiến đến các bộ tộc, gia trưởng, đa
thê, nhất phu nhất phụ.
Từ
quá khứ, người ta dự phóng cho tương lai: định chế gia đình vẫn còn biến đổi.
Không thể nói đến một “bản tính” (nature)
cố định của GĐ. Tại sao hôn nhân phải là giữa người nam và người nữ, chứ không
phải giữa hai người đồng tính? Tại sao trong quá khứ đã có chế độ “chồng chung”
(đa thê), mà không thể tiếp tục “chung chồng chung vợ”?
2/
Tình yêu cấu thành GĐ
Ai
cũng biết rằng tình yêu là cốt yếu của hôn nhân và gia đình. Nhưng điểm xác tín
này có thể bị lật ngược như thế này: bao lâu còn yêu thì ở với nhau; hết yêu
thì chia tay, đường ai nấy đi!
Nguyên
tắc này là bối cảnh của những luật lệ cho phép ly dị (bằng sự thỏa thuận), hoặc
bằng những cặp nhân tình sống chung không giá thú.
3/
GĐ là sở hữu của xã hội
Đối
lại quan điểm tự do (cá nhân chủ nghĩa), nhóm xã hội chủ trương rằng chuyện hôn
nhân con cái là quyết định của xã hội. Quan điểm gia đình cổ truyền là vết tích
của chế độ tư sản (vợ của tôi, con cái của tôi). Đã đến lúc xã hội phải quản lý
tất cả các tài sản của quốc gia. Con cái phải được giao cho Nhà Nước giáo dục.
Khuôn mẫu này đã được áp dụng ở các kibbutz ở Israel vào thập niên 30 của thế
kỷ XX.
4/
Tình yêu hay truyền sinh?
Trong
quá khứ, thần học công giáo cho rằng: (a) mục tiêu chính của hôn nhân là sinh
sản và giáo dục con cái; (b) mục tiêu thứ yếu là giải quyết đòi hỏi của tính
dục. Kể từ công đồng Vaticanô II, người ta lật ngược lại thứ tự: hôn nhân tiên
vàn là cộng đồng tình yêu; tình yêu nảy sinh hoa trái là con cái[i].
Trên
thực tế, hai mục tiêu ấy dần dần bị tách biệt:
a)
Có người muốn nhấn mạnh đến tình yêu nhưng không muốn nói đến truyền sinh: cổ
động các phương thế ngừa thai.
b)
Có người muốn nhấn mạnh đến truyền sinh mà không cần đến tình yêu: cổ động việc
thụ thai nhân tạo.
5/
Kinh tế và gia đình
Bên
cạnh những tấn công do các ý thức hệ gây ra, định chế gia đình còn bị đe doạ
bởi những điều kiện khó khăn của cuộc sống hiện nay.
-
Trong nền kinh tế nông nghiệp, các gia đình (hay đại gia đình) trở thành đơn vị
sản xuất. Với nền kinh tế công nghiệp, với sự tập trung tại các thành thị, các
đại gia đình dần dần bị phân rẽ. Thậm chí, do tình trạng công văn việc làm,
nhiều người chồng phải bỏ gia đình kiếm kế sinh nhai.
-
Trong văn hóa cổ truyền, người chồng quản lý tiền bạc và do đó khống chế được
người vợ. Đến khi người vợ cũng làm ra tiền, thì bà trở nên tự lập, và không
chịu để cho người chồng thao túng. Trên thực tế, có thể ông chủ “trao đổi” với
cô thư ký nhiều hơn là với vợ của mình; đối lại, có thể một bà vợ “sát cánh”
với đồng nghiệp nhiều hơn là với chồng mình.
-
Khi chồng đi làm, vợ đi làm, thì ai lo việc nhà? Ai phụ trách việc giáo dục con
cái?
-
Một luận cứ của nhiều chính quyền xử dụng là “Nhân mãn”: càng đông con thì càng
nghèo. Vì thế mỗi gia đình chỉ nên có một con.
Phần
lớn nội dung của chương Năm nhằm trả lời cho những vấn nạn ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét