Trang

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

II. Giá trị lao động


   
  Khi bàn về giá trị lao động, người ta ra như chỉ giới hạn vào công việc tay chân (lao động theo nghĩa chặt: vất vả đổ mồ hôi). Trong những thế kỷ gần đây, mới có những suy tư về lao động “tinh thần” và các “dịch vụ”.
      A. Từ lao động tay chân đến lao động tinh thần
      1/ Vào thời xưa, tại nhiều nền văn minh, lao động bị coi là hèn hạ, không xứng với hạng quý phái. Từ lúc nảy sinh các đế quốc và các giai cấp xã hội, thì lao động được dành cho giới nô lệ. Các nô lệ không được đối xử như con người. Trong đế quốc Rôma, sự phân biệt này rất rõ rệt: một bên là những công dân tự do và không phải là lao công (chính quyền, quân nhân); bên kia là những lao công và nô lệ. Những công việc nặng nhọc nhất được dành cho các nô lệ; những giai cấp nghèo mà không làm nô lệ thì làm những công việc nhẹ hơn. Ông Cicêrô và ông Seneca ca ngợi sự nhàn cư bởi vì nó cao thượng hơn lao động. Bên Ấn độ, các công việc đê tiện nhất được dành do giai cấp hạ đẳng. Cho đến nay, bên Phi châu, lao động được dành cho phụ nữ. Điều này không có nghĩa là phụ nữ được thăng tiến giống như Âu-Mỹ, nhưng ngược lại. Đàn ông đi săn bắn, nhậu nhẹt hoặc tham gia công chuyện xã hội, còn chuyện chân tay (kể cả làm ruộng) thì dành cho đàn bà.
      Nói cho đúng, không phải tất cả mọi thứ lao động đều bị coi rẻ. Công việc của các thủ công nghệ (vì đòi hỏi tài trí và sáng tạo) được đánh giá cao, nhưng đại đa số các người thợ sống trong hòan cảnh cùng cực. Trước khi có những kỹ thuật tân tiến hiện đại, phần lớn các người thợ phải làm những công việc cực nhọc (như là đào đất, đập đá, chặt cây) đòi hỏi sức mạnh gân guốc tuy thành quả thâu lượm chẳng được bao nhiêu.
      Trên thực tế, trong quá khứ, xem ra là điều mỉa mai khi nói rằng con người chế ngự trái đất bằng lao động (xc. St 1,28). Đúng hơn là trái đất đã chế ngự con người. Mục tiêu của lao động là kiếm bát cơm để sống, hoặc là xây cất những công trình dinh thự dành cho các vua chúa, hoặc là phục vụ những kẻ nắm giữ quyền lực. Trong tâm thức đó, ta dễ hiểu vì sao có sự phân biệt giữa hai thành phần xã hội: giới thượng lưu được danh giá bởi vì không phải làm việc; giới hạ lưu phải làm việc và bị đối xử như tôi tớ không chút phẩm giá gì.
      2/ Nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, người ta có một quan niệm mới về phẩm giá lao động. Người công nhân phải học hỏi kỹ thuật, cách điều khiển máy móc và các dụng vụ  tinh vi. Từ đó bộ mặt lao động được thay đổi. Mức độ sản xuất tăng thêm. Những công việc nặng nhọc thì đã có máy móc làm. Sự phân biệt giữa lao động “trí tuệ” và lao động “tay chân” được thu hẹp lại. Các giới tư bản nhận ra tầm quan trọng của lao động trong việc sản xuất và thay đổi thế giới. Từ đó, người ta xướng ra lý thuyết về giá trị của lao động trong việc kiến thiết xã hội.
      Các công nhân cũng ý thức về sự đóng góp của mình, vì thế cũng tranh đấu đòi cải thiện điều kiện làm việc xứng hợp với nhân phẩm. Tuy nhiên, với đà tiến triển của kỹ thuật, dần dần sự đóng góp của công nhân trong tiến trình sản xuất cũng giảm: máy móc đã lọai bỏ con người. Tình trạng thất nghịêp gia tăng khắp nơi. Vì thế cuộc tranh đấu của các công nhân cũng chuyển mục tiêu: quyền lợi đầu tiên của các công nhân là quyền được làm việc. Từ một nghĩa vụ, lao động trở thành một quyền lợi.
      B. Những sự tha hóa của người lao công
      Thuật ngữ “tha hóa” (aliénation) được thuyết mác-xít sử dụng để chỉ trích chế độ tư bản. Chính vì xuất xứ đó cho nên trước đây, thần học công giáo tỏ ra dè dặt khi sử dụng. Ngày nay, khi phân tích những hoàn cảnh lịch sử, ta thấy có những tình trạng nói được là tha hóa của người lao công (hay công nhân) dưới nhiều hình thức.
      1/ Khai thác thân xác của người thợ
      Mọi hình thức lao động đều mang theo mồ hôi và nhọc nhằn. Tuy nhiên, có những công việc đưa đến cả sự hủy hoại thân xác của người thợ. Điều này đã xảy ra đối với các nô lệ trong quá khứ, đối với các tù nhân trong các trại tập trung khổ sai. Lao động không còn phải là “vinh quang” nhưng sát hại người thợ. Đây là dạng tha hóa thứ nhất.
      2/ Khai thác sức lực của người thợ
      Đây là hình thức tha hóa mà Marx đã chỉ trích chế độ tư bản: người thợ chỉ lãnh được tiền lương đủ sống, chứ không lãnh trọn thành quả mà mình đã đóng góp. Một phần lợi tức đã được chủ nhân giữ lại để tích lũy vào số tư bản. Tư bản trở thành chủ nhân của sự sản xuất. Sự sản xuất không nhằm để thỏa mãn nhu cầu của người thợ, nhưng là để tăng thêm số vốn, để cho sự sản xuất có thể tăng thêm vô hạn định.
      3/ Sự xây dựng một nền văn minh dành riêng cho một thiểu số
      Sự tha hóa thứ ba nằm ở chỗ người thợ xây dựng một thế giới hòan tòan xa lạ với mình: thế giới dành cho hạng người dư giả, những khu ăn chơi xa hoa, các dãy khách sạn và nhà hàng đủ tiện nghi. Lao động và tư bản nằm trong tay chỉ huy của một thiểu số đại phú, và họ điều khiển nền kinh tế của quốc gia và thậm chí của thế giới nữa. Các người thợ được thuê mướn để xây dựng những công trình được thiết kế, nhưng sẽ không được đặt chân vào.
      Nên biết rằng cả ba điều tha hóa vừa rồi không chỉ được áp dụng vào điều kiện của chế độ tư bản của thế kỷ XIX-XX. Ngày nay, sự tha hóa xảy ra trên một bình diện rộng lớn hơn của việc toàn cầu hóa, và nội dung cũng không mấy thay đổi: người công nhân làm việc đầu tắt mặt tối cho những kế họach (của một nhóm tư bản, một chính phủ, một công ty liên quốc gia), mà họ không hề được bàn hỏi hay góp ý kiến. Họ cũng chẳng biết ai là chủ nhân của mình.
      4/ Sau cùng, dưới khía cạnh luân lý đạo đức, thì cả chủ lẫn thợ đều có nguy cơ trở thành nô lệ cho kỹ thuật mà con người đã tạo ra. Tuy nhìn nhận rằng “Lao động là vinh quang”, nhưng nếu con người chỉ biết lao động chứ không biết nghỉ ngơi thì đâu còn gì là phẩm giá nữa? Đấng Tạo Hoá cũng nghỉ ngơi để thưởng lãm công trình của mình cơ mà!

C. Tin mừng lao động7
      1/ Từ những điều vừa nói trên đây, chúng ta thấy vấn đề giá trị lao động có thể được nghiên cứu từ nhiều khía cạnh: về phía chủ thể hay về phía khách thể cũng như trong tương quan xã hội.
            a) Xét về phía con người, nghĩa là phía chủ thể làm việc:
      - lao động để phát huy những khả năng của mình
      - lao động để góp ích cho tha nhân (dịch vụ, phục vụ)
      - lao động để có phương tiện sinh sống
      - lao động để gia tăng lợi tức
      - lao động để “nghỉ ngơi”, nghĩa là để có phương tiện thư dãn, hưởng thụ..
            b) Xét về phía sản phẩm: kết quả của lao động
      Lao động mang lại những thành quả vật chất, cung cấp các nhu cầu tối thiểu của nhân loại, cũng như những thành quả tinh thần (văn hóa nghệ thuật).
            c) Xét về khía cạnh tương quan xã hội
      Lao động tạo ra tương quan giữa người thuê nhân công và người làm công; giữa chủ và thợ.
      - Trong các xã hội cổ truyền, mối tương quan tương đối đơn giản, và được ấn định qua các hợp đồng, được quy định do đức công bình giao hoán.
      - Trong các xã hội kỹ nghệ, mối tương quan trở nên phức tạp hơn. Nhiều khi “chủ nhân” không còn là một cá nhân nhưng là một tập đoàn (kể cả Nhà Nước): một công ty vô danh, với tầm hoạt động quốc tế (các công ty đa quốc gia). Người công nhân không biết khuôn mặt của những ông chủ đó (tư bản), mà chỉ gặp các trung gian (các doanh nhân).
      2/ “Linh đạo lao động” (Spiritualité du travail) có thể áp dụng vào khía cạnh thứ nhất (chủ thể) hơn là những khía cạnh khác. Kinh thánh cung cấp cho chúng ta nhiều suy tư về ý nghĩa và giá trị của lao động.
      a) Trước hết, thiết tưởng không nên bỏ qua bối cảnh văn hóa của dân Do thái, khác với các xã hội Hy-lạp Rôma. Israel là một dân tộc gồm những người thợ tự do, và họ chống lại hết mọi hình thức nô lệ từ bên trong hay bên ngòai (xc. Đnl 15,12-18). Trong dân Israel, không có sự phân biệt giữa giai cấp thợ thuyền (không có quyền lợi) và giai cấp thống trị (với đủ hết mọi quyền lợi). Tại đây, không hề có sự khinh miệt lao động. Kể cả các tư tế và kinh sư đều là những người làm việc chân tay. Đức Giêsu cũng đã làm việc chân tay, không phải vì là một hình thức sinh sống ngọai lệ, nhưng vì là một phần tử của dân tộc Israel. Người không bị khinh thường bởi vì làm việc chân tay. Sự làm việc cũng chẳng phải là một cách thức thực hành đức khiêm nhường, bởi vì nó không phải là điều hèn hạ. Thánh Phaolô cũng lớn lên trong văn hóa Do thái.
            b) Khi trình bày “Tin mừng lao động”, các văn kiện của Giáo hội thường nói đến lao động góp phần vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa, dựa theo sách Sáng thế. Những đọan văn này quả đáp lại ước nguyện của nền văn minh lao động ngày nay: nhờ lao động mà con người biến đổi thế giới. Tuy nhiên, đó là nói một cách tổng quát như một lý tưởng nêu lên cho toàn thể nhân lọai. Khi đi vào hoàn cảnh cụ thể, ta thấy rằng khó mà nhận thấy sự tham gia vào công trình tạo dựng thế giới ở nơi các công việc thường ngày: bán hàng, gác cổng, chạy xe, quét đường, vv.  Mặt khác, xem ra trong Cựu ước, chính những công trình vĩ đại ra như tham gia vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa lại không được ca ngợi; ngược lại là đàng khác, chẳng hạn như tháp Babel, kim tự tháp Ai cập, dinh thự của vua Salomon bị lên án như công trình của tính kiêu ngạo, của sự bóc lột bất công (St 11,1-9; 1V 10,14-11,13: Gr 50-51; Ed 26-28).
            c) Vì thế, ta có thể đọc lại những trang Kinh thánh về giá trị lao động dưới một viễn tượng khác. Thánh Phaolô không coi lao động như là cộng tác vào sự tạo dựng của Thiên Chúa, nhưng với một động lực rất cụ thể là “ai không làm việc thì đừng ăn” (2Tx 3,6-8.10-12). Đây không chỉ là một lý do thực tế (tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ), nhưng còn hàm ngụ cái gì sâu xa hơn, đó là tình liên đới với nhân lọai. Lao động là một trọng trách được trao cho tất cả nhân lọai, và hết mọi người đều phải tham gia. Ai không tham gia là tự lọai mình ra khỏi cộng đồng. Vì thế sự thay đổi thế giới đầu tiên mà ta có thể hình dung được là thay đổi vật chất thành cơm bánh: lao động nhằm sản xuất lương thực hằng ngày cho mỗi người. Không ai được phép miễn cho mình khỏi làm việc và dành miếng ăn của người khác.
            d) Lao động không chỉ góp phần vào việc thay đổi thế giới mà còn đóng góp vào việc thay đổi chính bản thân của con người. Con người có cơ hội phát triển những tiềm năng sức lực của mình, vận dụng nghị lực về thể lý và tinh thần của mình, và tập luyện những đức tính kiên nhẫn, cần cù, liên đới. Thêm vào đó, người Kitô hữu cũng góp mồ hôi nước mắt của mình vào công trình cứu độ của Đức Kitô trên thập giá.
            e) Cao điểm của linh đạo lao động là Thánh lễ. Cộng đoàn Hội thánh dâng lên Thiên Chúa chính những tặng phẩm mà Ngài đã ban cho nhân loại (bánh và rượu), nhưng đồng thời cũng là sản phẩm do bàn tay con người làm ra. Hội thánh dâng lên Thiên Chúa bánh và rượu cùng với tất cả những mồ hôi nước mắt, những nỗi nhọc nhằn của con người, để xin  được biến đổi thành Mình và Máu Chúa Giêsu. Thánh lễ vừa là hy lễ tạ ơn và dâng hiến, đền tội và chuyển cầu, vừa loan báo một thế giới mai hậu, khi mà những công việc của chúng ta sẽ được biến đổi trong thế giới mới (Tông huấn Sacramentum caritatis số 47).


7 Thuật ngữ này được đức Gioan Phaolô II xử dụng ở số 25 của thông điệp Laborem exercens.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét