Trang

Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2012

I. Khía cạnh Kinh thánh


Đoạn này trình bày một thứ “thần học về tạo dựng”, trải qua những giai đoạn chính của lịch sử cứu độ: 1/ buổi khai nguyên; 2/ sau khi con người phạm tội; 3/ cuộc cứu của đức Kitô nhập thể; 4/ việc tái tạo do cuộc Phục sinh. 

1/ Kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử là nền tảng của đức tin của dân Chúa (số 451) 

- Giải phóng khỏi cảnh nô lệ (Đnl 6,21) 
- Ông Abraham đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa bằng đức tin (Gs 24,3) 
- Thiên Chúa nối kết những giao ước kế tiếp với dân Israel. 

Kinh thánh không coi thế giới như là một khung cảnh thù nghịch, nhưng như là một quà tặng của Thiên Chúa, như là nơi và dự án mà Thiên Chúa ký thác cho con người điều khiển và làm việc có trách nhiệm “Thiên Chúa thấy rằng đó là điều tốt đẹp” (St 1,4.10.12.18.21.25). Thiên Chúa đặt con người, được dựng nên theo hình ảnh của Ngài, làm đầu mọi loài tạo dựng: đó là điều “rất tốt” (St 1,31). 

2/ Tương quan của con người với vũ trụ là một yếu tố cấu thành căn cước con người. Mối tương quan này phát sinh như là hoa trái của một tương quan sâu xa hơn nữa, đó là tương quan giữa con người với Thiên Chúa (số 452). 

Chỉ trong sự đối thoại với Thiên Chúa mà con người tìm thấy sự thật về chính mình. Từ cuộc đối thoại này, con người rút ra những hứng khởi và quy tắc để dự phóng tương lai thế giới, một khu vườn mà Thiên Chúa đã trao cho để trồng trọt (St 2,15). 

Ngay cả tội lỗi cũng không xóa bỏ sứ mạng ấy tuy dù nó chất nặng đau đớn và khổ nhọc khi làm việc (xc. St 3,17-19). 

Công trình sáng tạo luôn là đối tượng chúc tụng trong các kinh nguyện của dân Israel (Tv 104,24). Sự cứu độ được quan niệm như một cuộc tạo dựng mới để phục hồi sự hòa điệu và tiềm năng tăng trưởng mà tội lỗi đã làm hư hỏng: “Ta sẽ dựng nên trời mới và đất mới” (Is 65,17). 

3/ Sự cứu rỗi chung tất, mà Thiên Chúa ban cho nhân loại nhờ Con của mình, được thực hiện ở trong thế giới này (số 453). 

Một khi đã được thanh luyện, cuối cùng thế giới sẽ trở nên một nơi trong đó “công lý ngự trị” (2Pr 3,13). 

Trong cuộc đời công khai, đức Giêsu đã trân trọng những yếu tố của thiên nhiên; Người khuất phục chúng và dùng chúng để phục vụ cho kế hoạch cứu chuộc (Mt 14,22-23; Mc 6,45-52; Ga 6,16-21). 

Người môn đệ đức Kitô không làm nô lệ cho vật chất, nhưng biết dùng chúng để tạo ra sự chia sẻ và tình huynh đệ (Lc 16,9-13). 

4/ Qua cái chết và sự Phục sinh mang lại ánh quang mới mẻ, Đức Giêsu đã khai trương một thế giới mới, trong đó mọi sự quy phục Người (xc. 1 Cr 15,20-28). (Số 454). 

Đức Giêsu tái lập những tương quan của trật tự và hòa điệu mà tội lỗi đã phá hủy. Nơi đức Giêsu đã diễn ra sự hòa giải giữa con người và thế giới với Thiên Chúa. “Phàm ai ở trong đức Kitô thì đã thành một thụ tạo mới: điều cũ đã biến mất, điều mới đã hiện diện” (2Cr 5,17). 

Thiên nhiên, vốn đã được dựng nên trong Ngôi Lời, nay được hòa giải với Thiên Chúa và được bình định nhờ chính Ngôi Lời nhập thể (xc. Cl 1,15-20). 

5/ Không những nội tâm con người được chữa lành mà kể cả thân xác con người cũng được sức mạnh cứu chuộc của đức Kitô chạm đến (số 455). 

Muôn loài thụ tạo được tham gia vào cuộc canh tâm nảy sinh từ cuộc Phục sinh của đức Kitô, mặc dù nó còn rên siết quặn đau (xc. Rm 8,19-23). 

“Dù là thế giới, dù là sự sống, dù là sự chết, dù là hiện tại, dù là tương lai; tất cả là của anh chị em, mà anh chị em là của đức Kitô, và đức Kitô là của Thiên Chúa” (Cl 3,22-23).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét