Chúng ta sẽ nghiên cứu bảy chủ đề:1/ Nhu cầu và sản xuất. 2/ Tiêu thụ. 3/ Lao động. 4/ Tư bản. 5/ Doanh nghiệp. 6/ Thị trường. 7/ Nhà Nước. Những chủ đề này có thể phân phối thành ba khối: những chủ đề nền tảng (số 1-2); kinh tế vi mô (số 3-5); kinh tế vĩ mô (số 6-7). Mỗi chủ đề sẽ được trình bày dưới hai khía cạnh chính: a) bối cảnh lịch sử hay tư tưởng; b) quan điểm của GHXH.
Trước khi đi vào chi tiết, thiết tưởng cần nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa kinh tế và luân lý. Giữa đôi bên có ảnh hưởng hỗ tương. Bên cạnh những khía cạnh kỹ thuật liên quan đến sản xuất và trao đổi hàng hoá, kinh tế học còn phải quan tâm đến cách ứng xử của con người, vì thế cần tuân theo những quy luật của luân lý, bởi vì nói cho cùng, luân lý bàn về cứu cánh của con người cũng như về những phương tiện để đạt đến cứu cánh[1].
Từ nhận định sơ đẳng ấy, GHXH đã vạch ra vài nguyên tắc căn bản cho hoạt động kinh tế mà ta đọc thấy trong sách GLCG, chẳng hạn như:
- Số 2426: “Việc phát triển hoạt động kinh tế và sự gia tăng sản xuất nhằm phục vụ các nhu cầu của con người. Đời sống kinh tế không chỉ nhằm để làm ra nhiều sản phẩm, gia tăng lợi nhuận hoặc quyền lực; nhưng trước tiên nó nhắm tới phục vụ các nhân vị, con người toàn diện và toàn thể cộng đồng nhân loại. Hoạt động kinh tế phải được hướng dẫn theo những phương pháp và luật lệ riêng, phải được thực thi trong những giới hạn của trật tự luân lý, theo sự công bằng xã hội, để phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa về con người” (GS số 64). Xc TLHT số 334.
- Số 2407: “Trong lãnh vực kinh tế, việc tôn trọng nhân phẩm đòi phải thực thi đức tiết độ, đề điều tiết sự say mê của cải trần thế; đức công bằng, để bảo vệ các quyền lợi người lân cận và trả lại cho họ những gì thuộc về họ; và tình liên đới, theo khuôn vàng thước ngọc (regula aurea: điều gì bạn muốn cho người khác làm cho bạn, thì bạn hãy làm cho họ), và theo lòng quảng đại của Chúa, là Đấng vốn giàu sang, đã trở nên khó nghèo vì chúng ta, để lấy cái nghèo của Ngài mà làm cho chúng ta trở nên giàu có (xc. 2Cr 8,9)”.
Luân lý không phải là cái gì áp đặt từ bên ngoài cho hoạt động kinh tế, nhưng là một điều kiện cho sự an toàn và quân bình không những các sinh hoạt kinh tế mà còn cho đời sống cá nhân và xã hội nữa. Việc tôn trọng các nguyên tắc luân lý giúp cho sự phát triển kinh tế (TLHT số 332; thông điệp Caritas in veritate số 5; 36; 45).
Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu vài nguyên tắc luân lý của sinh hoạt kinh tế, dựa theo các tiêu đề của kinh tế học, đi từ những nguyên tắc có tính tổng quát cho đến những nguyên tắc thuộc về từng lãnh vực riêng biệt. Nên biết là những nguyên tắc này chi phối cả người tiêu thụ nữa (nghĩa là tất cả chúng ta), chứ không phải chỉ riêng các doanh nhân (những người hoạt động kinh tế), và đã được đưa vào sách Giáo lý Hội thánh Công giáo.
Chúng ta bắt đầu với hai đề tài cơ bản của kinh tế: nhu cầu (sản xuất); tiêu thụ.
A. Nhu cầu
Theo số 2426 của sách GLCG đã được trích dẫn, kinh tế là một tổng bộ những hành vi nhắm đến việc thoả mãn những nhu cầu của con người, khởi đi từ sự khan hiếm nguyên liệu, do con người làm ra và nhắm phục vụ con người (toàn thể con người, và toàn thể nhân loại). Xc TLHT số 331.
Một nền kinh tế được luân lý hướng dẫn cần đặt ra những câu hỏi sau: cần phải sản xuất những loại hàng nào, với số lượng bao nhiêu? Phải sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Phải phân phối như thế nào? Phải tiêu thụ như thế nào?
1/ Những của cải cần sản xuất
Như đã nói trước đây, trong tiếng Việt, “của cải” (hoặc “tài sản”) thường chỉ được hiểu về những đồ vật chất, còn trong ngôn ngữ châu Âu, từ ngữ được hiểu rộng hơn: biens (Pháp), goods (Anh) tự nó nói lên cái gì “tốt” (thiện hảo) và bao hàm cả lãnh vực tinh thần. Từ đó, luân lý công giáo đề ra một hệ trật giá trị, đó là: các của cải (biens, goods) phải dẫn chúng ta đến điều Thiện (Bien, Good): GLCG số 2420. Trong tiếng Việt, chúng ta khó nhận thấy mối liên hệ của sự “chơi chữ” ấy.
Cần phải sản xuất tất cả những của cải đáp ứng với nhu cầu (nghĩa là những gì cần thiết: needs) của con người. Sự sản xuất không phải là cứu cánh của chính mình (sản xuất vì sản xuất), nhưng nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Các nhu cầu này mang nhiều chiều kích khác nhau:
- Có những nhu cầu vật chất, có những nhu cầu văn hóa, có những nhu cầu tâm linh.
- Cần phân biệt giữa nhu cầu thực sư và nhu cầu giả tạo; giữa nhu cầu chính yếu và nhu cầu phụ thuộc hoặc thậm chí nhu cầu bỉ ổi.
- Có những nhu cầu cũng là những quyền lợi căn bản của con người, đó là: những quyền lợi nhắm đến việc bảo vệ nhân phẩm, tình liên đới xã hội và công lý.
- Có những nhu cầu cá nhân, có những nhu cầu xã hội (liên quan đến công ích), có những nhu cầu phổ quát (của nhân loại). Vì thế các quốc gia phải tổ chức thế nào để thoả mãn những nhu cầu của các công dân, và đồng thời góp phần vào việc thăng tiến các quốc gia kém mở mang.
- Không những chỉ lo sản xuất các của cải với số lượng đầy đủ, nhưng cũng còn phải lưu tâm đến phẩm tính của các dịch vụ, của môi trường và của đời sống nói chung.
- Xét vì các nhu cầu mang tính cách chủ quan, cho nên vấn đề giáo dục được đặt ra: con người không nên chỉ tìm thoả mãn các nhu cầu sinh lý mà bỏ qua những nhu cầu cao thượng hơn.
- Xét vì sự sản xuất nhằm phục vụ các nhu cầu của con người, cho nên không được phép sản xuất chỉ để sản xuất, hoặc nhằm đến tích lũy tài sản, củng cố quyền lực. Do đó, không thể chấp nhận những học thuyết cho rằng có thể sản xuất bất cứ cái gì có thể bán được (chỉ nhằm kiếm lợi), hoặc sản xuất những đồ vật để phô trương, hoặc sản xuất khí giới chiến tranh.
Dĩ nhiên, trong việc thẩm định các nhu cầu, lý trí (và ý chí) giữ một vai trò then chốt: lý trí phải cân nhắc cái gì là mục đích, cái gì là phương tiện, cái gì là chính yếu, cái gì là phụ thuộc.
2/ Sản xuất như thế nào?
Cần phải tổ chức việc sản xuất nhắm đến con người. Cần phải duy trì ba điểm sau đây: a) con người đứng trên khoa học và kỹ thuật; b) con người đứng trên tư hữu; c) sự tham gia của tất cả mọi người vào tiến trình sản xuất
a) Con người đứng trên khoa học và kỹ thuật. Sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật cần nhắm đến việc đáp ứng những nhu cầu của con người, và phải đặt dưới sự kiểm soát của con người. Không được phép hy sinh phẩm giá con người cho sự tổ chức sản xuất tập thể hay cho hiệu năng sản xuất.
b) Con người đứng trên của cải vật chất: lao động của con người phải được đặt trên các phương tiện sản xuất, tư bản và kỹ thuật (thông điệp Laborem exercens).
c) Sự tham gia vào tiến trình sản xuất. Sự tham gia có thể nhìn dưới hai mặt:
- Các công nhân tham gia vào doanh nghiệp, vào lợi nhuận, vốn, sự quản trị, biến doanh nghiệp thành một cộng đồng (TLHT số 281).
- Các công dân tham gia vào sinh hoạt kinh tế, để tạo thăng bằng đối lại với sự canh thiệp của Nhà Nước cũng như để tạo nên sự phát triển văn hóa, kinh tế và xã hội cho nhân loại. Sự tham gia không những là một quyền lợi nhưng còn là một nghĩa vụ. Quyền sáng kiến về kinh tế của các cá nhân và đoàn thể là điều rất quan trọng đối với công ích (GLCG số 2429-2430; TLHT số 336).
B. Tiêu thu
Việc tiêu thụ các đồ sản xuất cần tuân theo những quy tắc luân lý sau đây:
1/ Hãy quan tâm đến “cái Thực” hơn là “cái Hữu” (Etre / Avoir)[2]. Việc tham lam chiếm hữu của cải dẫn tới nếp sống duy vật, không bao giờ thoả mãn (xc. GLCG số 2544; TLHT số 360).
2/ Tính điều độ đứng trước chủ nghĩa tiêu thụ. Sự tràn ngập các tài sản vật chất và sự tạo ra những nhu cầu giả tạo có thể khiến chúng ta trở thành nô lệ cho sự chiếm hữu và hưởng lạc. Não trạng tiêu thụ phát sinh sự tha hoá và không mãn nguyện, khi lấy cái phụ thay cho cái chính; lòng tham không đáy bóp nghẹt những khát vọng cao thượng (GLCG số 2548; TLHT số 334).
3/ Liên đới thay cho cạnh tranh. Cần phải giúp đỡ những người nghèo; những của dư thừa tại các nước giàu phải được dùng để giúp đỡ các nước nghèo (xc. TLHT số 359).
C. Lao động
Đề tài này đã được bàn trong chương trước. Chỉ cần nhắc lại vài điểm để thấy sự mạch lạc trong đời sống kinh tế.
1/ Các chiều kích của lao động: chiều kích chủ thể (con người) và chiều kích khách thể. Con người đứng trên đồ vật sản xuất, tư bản và kỹ thuật (TLHT số 270-271).
2/ Lao động là một quyền lợi và một nghĩa vụ của mỗi người (TLHT số 274; 287).
3/ Những quyền lợi và nghĩa vụ của công nhân (TLHT số 301-304).
4/ Tương quan giữa lao động và tư bản. Có thể nhìn dưới hai khía cạnh:
a) Lao động và tư bản [3] như là hai yếu tố góp phần vào tiến trình sản xuất (TLHT số 277-280). Trong quá khứ, hai bên đã có những tranh chấp:
- Chủ nghĩa tư bản tự do đã bóc lột lao động.
- Chủ nghĩa xã hội cho rằng lao động đã bị tha hoá do sự chiếm hữu các phương tiện sản xuất bởi giới tư bản; vì thế họ chuyển sự sở hữu này sang giới vô sản.
GLXH đề nghị một hình thức hợp tác giữa hai bên qua việc “đồng quản lý” (co-owner), nghĩa là để cho công nhân cũng được tham gia vào việc quản trị tư bản. Sự tham gia này có thể ở lãnh vực quản lý tư bản hay là ở lãnh vực lợi nhuận. Sự đồng quản lý có ích lợi là công nhân cảm thấy mình liên đới với số phận của doanh nghiệp, cũng như tránh sự tập trung tư bản vào một nhóm thiểu số (TLHT số 281).
b) Lao động là một phương thế để thủ đắc tài sản (TLHT số 282-283). Nói cách khác, lao động là một nguồn gốc của tư hữu. Điều này đưa chúng ta đến đề tài tư hữu sau đây.
D. Tư hữu
Đây là một trong những vấn đề nóng bỏng nhất của GHXH trong thế kỷ XX, do hai chủ nghĩa đối lập nhau: a) chủ nghĩa tư bản bênh vực thuyết tư hữu, một động lực cho sinh hoạt kinh tế; b) chủ nghĩa xã hội (cộng sản) đòi dẹp bỏ quyền tư hữu vì cho rằng đó là nguyên nhân gây ra cảnh bóc lột lao động về phía giới tư sản. Quan điểm của Giáo hội như thế nào?
Thực ra vấn đề này khá phức tạp, bởi vì trong vòng một thế kỷ, bối cảnh chính trị xã hội đã thay đổi khá nhiều, và vì thế có sự tiến triển trong quan điểm của Giáo hội về quyền tư hữu. Chúng tôi xin trình bày ba điểm: 1/ Quyền tư hữu: sự tiến triển của GHXH. 2/ Những chiều kích của quyền tư hữu. 3/ Những khía cạnh mới của quyền tư hữu.
1/ Sự tiến triển của học thuyết công giáo về tư hữu
Những suy luận về tư hữu đã bắt đầu từ xa xưa: chúng ta đã thấy những quan điểm về tư hữu trong Kinh thánh và các giáo phụ, cũng như trong các cổ luật Rôma và Germanic. Thánh Tôma Aquinô đã tổng hợp quan điểm thần học Kitô về tư hữu (Summa Theologica II-II, q.66, a.2). Theo luật tự nhiên, toàn thể tài sản được dành cho tất cả nhân loại; nhưng luật chế định có thể trao tài sản cho tư nhân quản trị và sử dụng[4]. Thánh Tôma nhận thấy rằng khi tài sản nào được trao cho tư nhân quản trị thì nó được gìn giữ coi sóc kỹ lưỡng hơn (“cha chung thì không ai khóc”!). Mặt khác, sự quản trị tư sản là cơ hội để con người bộc lộ tài năng tự do của mình và cũng cần thiết cho sự ổn định tương giao xã hội.
Tuy thời nào cũng xảy ra những lạm dụng tư hữu, và thời nào cũng nảy lên những phong trào đòi hỏi phân phát đồng đều tài sản cho mọi người, nhưng những cải cách quan trọng nảy sinh vào từ cuối thế kỷ XIX, với cuộc cách mạng kỹ nghệ với hố phân chia hai giai cấp tư bản và vô sản. Như chúng ta đã biết chủ nghĩa cộng sản chủ trương xóa bỏ quyền tư hữu, chuyển quyền sở hữu sang tay của tập thể. Chính quan điểm đối lập về quyền tư hữu đã phát sinh hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản. Dù sao chúng ta cũng đừng quên rằng trong vòng 100 năm qua cả hai chủ nghĩa đều có sự tiến triển; và học thuyết xã hội của Giáo hội cũng tiến triển. Chúng ta hãy lược qua những giai đoạn chính.
a) Thông điệp Rerum Novarum (1891) bênh vực quyền tư hữu như là một quyền lợi tự nhiên của con người. Lao động là nguồn gốc của tư hữu trên những tài sản hưởng dụng cũng như trên những tài sản bền vững, nhờ đó con người có phương tiện bảo đảm cho tương lai bản thân cũng như của gia đình. Hậu nhiên, sự truất hữu quyền tư hữu là một điều bất công (RN số 4-9). Cũng nên biết là đức Lêô XIII bênh vực tư hữu như một quyền lợi tự nhiên của con người, chứ không đả động tới chế độ tư bản hay sự phân phối chênh lệch các tài nguyên.
b) Đức Piô XI trong thông điệp Quadragesimo Anno (1931) mở rộng ra đến các chiều kích khác nhau của tư hữu (số 46,48,49). Tất cả các tài sản đã được Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại; do đó cần phải thiết lập một trật tự thế nào để đạt được mục tiêu đó. Mối liên hệ giữa con người với tài sản vừa có chức năng cá nhân vừa có chức năng xã hội. Vai trò của chính quyền là phải dung hợp hai chức năng đó để không rơi vào chủ nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa tập thể. Thông điệp mở cửa cho quan điểm về “công bằng xã hội” (justitia socialis) cũng như việc quốc hữu hóa vài thứ tài sản.
c) Trong những sứ điệp truyền thanh, đức Piô XII vẫn tiếp tục bảo vệ quyền tư hữu như cái gì thuộc về phẩm giá và tự do của con người cũng như là điều kiện bảo đảm cho gia đình. Tuy nhiên, quyền tư hữu không có tính cách tuyệt đối. Dù sao xem ra đức Piô XII chỉ nhìn thấy quyền tư hữu của các cá nhân, nhưng chưa nhận ra vấn đề tư hữu của các công ty tư bản với khối lợi tức tích lũy kếch sù.
d) Chiều kích mới của vấn đề tư hữu được đức Gioan XXIII vạch ra trong thông điệp Mater et Magistra (số 104-106), mở đường cho công đồng Vatican II, thí dụ như chế độ bảo hiểm xã hội được du nhập ở nhiều quốc gia; sự phân biệt giữa những nhà tư bản (cổ phần) và những cơ quan quyết định, hoặc giữa những chủ nhân và các doanh nhân trong các công ty. Nói khác đi, tư sản không chỉ hoàn toàn gắn liền với nhân phẩm mà còn kéo theo nhiều yếu tố khác nữa.
e) Sau công đồng, với thông điệp Populorum Progressio đức Phaolo VI mở rộng nhãn giới hơn nữa trước sự chênh lệch giữa các dân tộc. Tư hữu không phải là cái gì cứng nhắc gắn liền với nhân phẩm, nhưng phải cần được lồng trong mục tiêu phổ quát của các tài sản được dành cho toàn thể nhân loại.
f) Từ khi chế độ cộng sản sụp đổ, nhân loại đứng trước một nguy cơ mới: tất cả đều dành cho nền kinh tế thị trường. Xem ra giá trị tối cao là tư bản, và con người lẫn lao động đều phải hy sinh cho thị trường. Thông điệp Centesimus Annus đã cảnh báo nguy cơ đó.
Như thế, trải qua những biến chuyển xã hội trong một thế kỷ vừa qua, học thuyết xã hội về tư hữu cũng tiến triển với sự bổ túc của những chiều kích khác nhau của tư hữu.
2/ Những chiều kích của tư hữu
Ta có thể tóm vào hai chiều kích chính: chiều kích nhân bản và chiều kích xã hội.
a) Xét theo chiều kích nhân bản, tư hữu là một quyền lợi của con người. Chính nhờ quyền tư hữu mà con người phát triển phẩm giá của mình như là chủ thể tự do, chiếm giữ và sử dụng các đồ vật và tài sản. Từ đó, ta thấy rằng nhân phẩm của con người bị thương tổn khi thiếu thốn những của cải tối thiểu nhất để sinh sống. Tuy nhiên, nhân phẩm của con người cũng bị thương tổn không kém khi con người chỉ biết chạy theo tài sản, tích lũy chúng, trở thành nô lệ cho chúng.
b) Chiều kích xã hội của tư hữu. Lúc vừa ra đời, học thuyết xã hội của Giáo hội đã bênh vực quyền tư hữu như là một quyền tự nhiên, bất khả xâm phạm để chống lại với chủ thuyết cộng sản muốn truất bỏ quyền này. Nhưng dần dần, với sự tiến triển của thời gian và của các khoa học xã hội, đạo lý về quyền tư hữu đã được bổ túc thêm với chiều kích xã hội. Thông điệp Quadragesimo Anno (số 46), Mater et Magistra (số 19) đã ghi nhận điểm đó, và được Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” số 69 phát biểu như sau:
Thiên Chúa đã dành trái đất và tất cả các tài nguyên của nó cho hết mọi người và mọi dân sử dụng. Vì thế, các tài nguyên Chúa tạo dựng cần phải đến tay mọi người dưới sự hướng dẫn của công bằng và sự tháp tùng của bác ái. Dù các hình thức tư hữu có thế nào đi chăng nữa tùy theo sự thích ứng của những thể chế hợp pháp của các dân tộc vào những hoàn cảnh thay đổi, nhưng không bao giờ được làm mất đi việc dành các tài sản cho hết mọi người.
Điều này được lặp lại trong thông điệp Centesimus Annus ở số 31 và sách GLCG 2403-2406.
Chính vì dựa trên chiều kích xã hội của tài sản nên học thuyết xã hội của Giáo hội cho phép sự truất hữu trong một vài trường hợp, thí dụ như những khu đất đai không cầy cấy trồng trọt hoặc những tài sản làm ngăn trở cho sự thịnh vượng chung. Dĩ nhiên sự truất hữu (hay sung công) cũng phải tuân theo những quy tắc luân lý, thí dụ như phải nhằm tới lợi ích quốc gia chứ không phải chỉ nhằm thủ lợi cho một thiểu số. Mặt khác nếu trong quá khứ đã có lúc người ta chỉ biết hai giải pháp cực đoan giữa tư hữu (tài sản tư nhân) và quốc hữu (tài sản quốc gia), ngày nay người ta thấy còn có nhiều giải pháp ở giữa hai thái cực ấy, nhất là một khi hai khái niệm Nhà Nước và Xã hội dân sự không còn gắn liền với nhau nữa.
Ngoài ra, về vấn đề tương quan giữa con người với tài sản, dựa theo truyền thống triết học Hy lạp và cổ luật Rôma, luân lý Công giáo đã phân biệt nhiều quan niệm chuyên môn:
+ Quyền “sở hữu” (làm chủ proprietas, dominium: property, ownership) và quyền “hưởng dụng” (sử dụng, quản lý: usus: use). Sở hữu chủ có thể là tư nhân (tài sản tư) hoặc là tập thể (kể cả Nhà Nước: tài sản công). Tư nhân có quyền định đoạt về tài sản thuộc quyền sở hữu của mình; nhưng trong việc sử dụng thì cần phải quan tâm đến những người khác nữa (GS 69; GLCG 2404; TLHT số 176-177), bởi vì xét cho cùng, trước mặt Chúa, chúng ta chỉ là những người quản lý những tài nguyên mà Ngài đã ban cho toàn thể nhân loại sử dụng.
+ Tài sản (của cải) có thể được xếp vào hai hạng: của cải “tiêu dùng” (tiêu thụ: goods for use and consumption, những đồ vật này sẽ bị huỷ hoại sau khi sử dụng, chẳng hạn như lương thực và áo quần); của cải “sản xuất” (goods of production, dùng vào việc sản xuất những của cải khác, thí dụ như máy móc). Giáo hội chấp nhận cho tư nhân được làm chủ cả những của cải sản xuất (GLCG 2405).
+ Dưới khía cạnh luân lý và tu đức, còn có sự phân biệt giữa của cải “cần thiết” (necessary) và của cải “dư thừa” (superfluous). Được coi là “cần thiết” khi cần để sinh sống và phát triển bản thân và gia đình (của ăn, áo mặc, nhà ở) cũng như để duy trì một mức sống cân xứng và dự phòng tương lai (bệnh tật, học hành, vv). Sự phân biệt này liên quan đến việc chia sẻ với người nghèo: nghĩa vụ này được đặt ra đối với của cải dư thừa, và đôi khi ngay cả đối với của cải cần thiết (TLHT số 359). Thậm chí, người nghèo có quyền chiếm đoạt của cái cần thiết để bảo vệ mạng sống của mình (GLCG số 2408, cuối).
3/ Những khía cạnh mới của tư hữu
Trong những xã hội cổ truyền, vấn đề tư hữu chỉ giới hạn tới mảnh vườn, cái nhà, cái cày cái cuốc với cặp trâu bò. Nhưng trong những xã hội tân tiến kỹ nghệ hiện nay, quan niệm về tư hữu được nới rộng rất nhiều: tài sản tiêu dùng hay sản xuất, tài sản vật chất hay tinh thần, vv.
a) Sở hữu chủ của tài sản không nhất thiết là một cá nhân. Trong các nền kinh tế tư bản hiện nay, chủ nhân của những công ty xí nghiệp lớn có thể là những nhóm tài phiệt nhưng cũng có thể là những nhóm cổ phần trong đó kể cả các công nhân cũng đóng góp.
b) Tuy phải cảnh giác về nguy cơ làm nô lệ của tiền của, nhưng Giáo Hội không chủ trương “bần cúng hóa nhân dân”. Ngược lại, cần cổ vũ cho quyền sở hữu được mở rộng đến người nghèo. Lao động là một phương tiện để mở rộng sự sở hữu.
c) Vấn đề giàu nghèo càng ngày càng mang tính chất quốc tế, đến nỗi thế giới chia thành hai khối Bắc (giàu) và Nam (nghèo), với những nhịp độ sản xuất khác nhau. Các nước nghèo sản xuất không đủ để trả tiền lãi chứ chưa nói chi tới việc hoàn lại vốn.
d) Bên cạnh khối tài sản vật chất, ngày nay người ta nói tới tài sản tinh thần (thí dụ chất xám): chính những đầu óc chuyên gia nhờ kiến thức hiểu biết và tài quán xuyến của họ, với những dự án và kế hoạch của họ, có thể ảnh hưởng đến cả chính sách kinh tế và phát triển của một quốc gia hay của toàn thể nhân loại.
e) Vì thế các kế hoạch kinh tế không phải chỉ nhằm tăng gia những tài sản và dịch vụ vật chất, nhưng còn phải nhắm tới việc khuếch trương những tài sản tinh thần, tóm lại trong tiếng “văn hóa”.
f) Vấn đề phân phối đồng đều các tài nguyên trên thế giới cũng cần được áp dụng vào các tài sản tinh thần. Vì vậy nó cũng bao hàm việc tạo điều kiện để các dân tộc nghèo cũng được chia sẻ vào những kho tàng kiến thức và kỹ thuật của nhân loại. Mặt khác, không thiếu những nước tuy nghèo về vật chất nhưng có một gia sản văn hóa tinh thần rất phong phú và họ cần phải bảo tồn và phát triển. Chính nhờ sự phát triển những giá trị tinh thần mà họ sẽ không bị tha hóa khi chạy theo những tài sản vật chất và trở thành nô lệ của chúng.
g) Việc sử dụng tư bản còn liên quan đến việc đầu tư và lợi nhuận sẽ được bàn đến trong những đoạn tiếp theo.
Sách TLHT bàn đến tư hữu trong chương Bốn, trong phần tổng quát về những nguyên tắc của GHXH (số 171-181), cũng như trong chương nói đến gia đình (số 248-251) và lao động (số 282-283).
E. Doanh nghiệp
Cho đến nay chúng ta đã phân tích các yếu tố làm nên sinh hoạt kinh tế (khía cạnh tĩnh); bây giờ chúng ta ráp các yếu tố đó lại để xem chúng tương tác như thế nào (khía cạnh động), đứng đầu là doanh nghiệp (business, entreprise).
GHXH dành cho doanh nghiệp một vị trí quan trọng (TLHT số 336-345), bởi vì đây là nơi hội tụ của các tác nhân cơ bản của tổ chức kinh tế: lao động, tư bản, nghiệp đoàn, vv., cũng như là nơi áp dụng những nguyên tắc hỗ trợ, liên đới.
1/ Các tác nhân của sự sản xuất: tư bản và lao động
Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất trong đó các con người và tư bản gặp nhau, với mục tiêu là đáp ứng các nhu cầu qua việc sản xuất các tài sản và dịch vụ, từ đó thu được lợi nhuận.
Trong doanh nghiệp có hai tác nhân chính: những người góp vốn và những người góp sức lao động. Hai thành tố này cần bổ túc cho nhau thay vì chống đối nhau. Một nhân tố thứ ba có thể can thiệp nữa là các doanh nhân, nghĩa là những người được giao việc quản lý các nguồn lực của doanh nghiệp[5].
GHXH đã nhìn nhận tầm quan trọng của các doanh nhân, và nêu bật những đức tính cần có (khôn ngoan, trung thực, sáng khởi) cũng như cảnh giác những nguy cơ (quyền lực, lợi lộc, ích kỷ). Doanh nhân cần phải biết rõ các nhu cầu của con người, tổ chức các thành tố sản xuất, tạo ra bầu khí nhân bản trong nội bộ doanh nghiệp, và duy trì liên lạc tốt đẹp với xã hội (TLHT số 343-345).
2/ Mục tiêu của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một cộng đồng gồm bởi những con người (society of persons, chứ không chỉ nguyên là công ty tài sản: society of capital goods). Vì thế cần tìm cách để cho mọi người đều được tham gia vào sự quản trị. Doanh nghiệp là nơi các công dân biểu lộ tinh thần sáng khởi và dân chủ.
Mục tiêu của doanh nghiệp là đáp ứng những nhu cầu của cá nhân và xã hội, cũng như nhân bản hóa các cơ cấu kinh tế. Doanh nghiệp tạo ra công ăn việc làm cho công nhân, và góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế của xã hội
Doanh nghiệp nhằm phục vụ con người, vì thế không thể nào để cho nó vụt khỏi tầm kiểm soát của con người. Sự phục vụ con người được diễn tả qua việc tôn trọng các quyền lợi của con người (trong đó có quyền được trả lương cân xứng), công ích, môi sinh (TLHT số 338-342).
3/ Trong khung cảnh của doanh nghiệp, sách TLHT bàn đến vấn đề lợi nhuận (số 340). Dưới khía cạnh luân lý, lợi nhuận là điều chính đáng. Lợi nhuận chỉ đi trái với luân lý khi nó trở thành mục tiêu duy nhất của doanh nghiệp (sách GLCG số 2424), không quan tâm đến các mục tiêu khác, trong đó có việc tôn trọng những quyền lợi căn bản của con người (về phía doanh nhân cũng như về phía công nhân).
F. Thị trường
1/ Kinh tế thị trường
Hoạt động kinh tế dựa trên cung và cầu. Sự gặp gỡ giữa cung và cầu diễn ra trong hợp đồng, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố (quảng cáo, kiếm lời, sự can thiệp của công quyền, vv). Bên cạnh luật cung cầu lại còn hệ thống tiền tệ nữa.
Trên lý thuyết, có thể hình dung bốn mô hình về tương quan giữa người mua và người bán: a) “độc quyền” (monopoly: một người bán), b) “thiểu số độc quyền” (oligopoly: tập đoàn, một số ít người bán), c) “cạnh tranh không hoàn hảo” (nhiều người bán), d) “cạnh tranh hoàn hảo” (nhiều người mua và nhiều người bán). Trên thực tế, thời nay mô hình thứ nhất và thứ bốn (tượng trưng cho hai thái cực) không còn nữa; chỉ còn lại hai mô hình đang chế ngự tại một thị trường mà thông tin không được đầy đủ, các món hàng không khác nhau là mấy, và một vài thương gia có thể tác dụng trên giá cả.
Kinh tế thị trường thể hiện ba chức năng trong một sự cạnh tranh hợp lý: thúc đẩy sự sản xuất hàng hoá và dịch vụ; điều phối nhân sự và tài nguyên để giảm giá cả và tăng phẩm tính; phân phối hàng hóa để được sử dụng hữu hiệu.
Thị trường tôn trọng tự do kinh tế, kích thích sáng kiến, tạo ra và phân phối sự giàu có. Vì thế thông điệp Centesimus annus (số 34) coi thị trường như là dụng cụ thích hợp để phối trí các nguồn lực, đáp ứng nhu cầu, kích thích sự giao dịch, đề cao ý muốn lựa chọn của con người (trích dẫn trong TLHT số 347).
Tuy nhiên, GHXH cũng ý thức về những nguy cơ của thị trường. Trong số những giới hạn, ta có thể kể đến: chỉ chú ý đến những nhu cầu nào mang lại nhiều món lợi; biến tất cả các nhu cầu thành món hàng mua bán (kể cả các nhu cầu tinh thần, văn hóa, tôn giáo); kích thích những nhu cầu giả tạo; đôi khi thị trường không phân phối lương bổng công bằng cho công nhân.
2/ Tiêu chuẩn luân lý cho thị trường: công ích
Thị trường cũng như hoạt động kinh tế nói chung cần phải góp phần vào sự phát triển con người. Cách riêng,
a) Tự do kinh tế cần phải phục vụ con người. Tự do kinh tế là một hình thức của tự do của con người; sự tự do của con người không phải là tuyệt đối nhưng cần phải thi hành trong tình liên đới xã hội, công ích, quan tâm đến những thành phần yếu kém.
b) Sự cạnh tranh cần phải phục vụ sự hợp tác. Cần phải tránh tật tham lam và ích kỷ. Sách GLCG số 2409 nói đến ba hình thức hoạt động bất chính: đầu cơ (làm biến động giá cả cách giả tạo để trục lợi nhưng làm thiệt hại cho tha nhân); hối lộ (làm sai lệch phán đoán của những người phải quyết định theo luật pháp); chiếm đoạt và sử dụng riêng của cải chung.
c) Các hợp đồng phải tuân giữ đức công bằng. Hợp đồng không thể gọi là hợp pháp do sự thoả thuận, nhưng còn phải xét đến nội dung và các điều kiện nữa (GLCG số 2410).
d) Lợi nhuận và đầu tư cần được hướng dẫn bởi các quy tắc luân lý. Lợi nhuận thu được chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Tuy vậy, bên cạnh khía cạnh kinh tế, cần lưu ý đến các giá trị luân lý và văn hóa (TLHT số 349).
Một “vấn đề mới” được đặt ra trong thời gian gần đây là “thị trường tài chính”, hầu như độc lập với “thị trường hàng hóa”. Thực tại này đặt ra những vấn đề luân lý mới (TLHT số 368-369), và được bàn rộng trong thông điệp Caritas in veritate.
G. Nhà Nước
GHXH nhận thấy sự can thiệp của Nhà Nước vào hoạt động kinh tế là điều cần thiết. Tuy nhiên, sự can thiệp quá mức của Nhà Nước cũng là điều nguy hiểm. Nhà Nước can thiệp vào hoạt động kinh tế theo nguyên tắc hỗ trợ.
- Nhà Nước phải tổ chức một khung cảnh pháp lý để tạo ra một tình trạng ổn định cho sinh hoạt kinh tế cũng như việc thực thi các quyền lợi của công dân.
- Nhà Nước và các định chế công có thể sở hữu các phương tiện sản xuất. Ngoài ra Nhà Nước có thể tác dụng đến việc sản xuất và thị trường qua việc thu thuế, hỗ trợ giá cả.
- Nhà Nước cũng cần can thiệp với các tổ chức quốc tế trong việc ổn định hệ thống tiền tệ thế giới, cũng như trong việc giải quyết các món nợ của những nước nghèo.
Vai trò của Nhà Nước được Sách GLCG liệt kê vắn tắt ở số 2431, và được quảng diễn trong sách TLHT số 351-355.
Mặt khác, GHXH cũng nhấn mạnh đến vai trò đến các cộng đồng xã hội (chẳng hạn như: những đoàn thể trung gian, tổ chức tư nhân phi lợi nhuận) trong trách nhiệm điều chỉnh hoạt động của thị trường, cách riêng qua việc giáo dục về các nấc thang giá trị (TLHT số 356-357; xem thêm Caritas in veritate số 38; 46).
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------
[1] Xem thêm thông điệp Caritas in veritate số 36.
[2] Những văn kiện của Giáo hội nói về sự phân biệt này được sách TLHT trích dẫn ở chú thích 679 (liên quan đến số 318).
[3] Nên lưu ý đến tính cách hàm hồ của vài từ ngữ: “Tư bản” (capital, vốn) có thể hiểu theo nhiều nghĩa (TLHT số 276): a/ Đôi khi nó ám chỉ các phương tiện vật chất để sản xuất trong một xí nghiệp nhất định nào đó; b/ có khi nó có nghĩa là nguồn tài chính dùng để sản xuất hay dùng vào các dịch vụ của thị trường chứng khoán; c/ Người ta cũng có thể gọi nguồn nhân lực là “tư bản con người” (human capital), tức là bản thân những người đang dùng khả năng của mình để tham gia lao động, tận dụng kiến thức và óc sáng tạo của mình, nắm bắt các nhu cầu của đồng nghiệp và hiểu biết các thành phần khác trong tổ chức; d/ Thuật ngữ “tư bản xã hội” (social capital) ám chỉ khả năng của một tập thể biết làm việc với nhau, cũng là kết quả của những sự đầu tư vào một tập đoàn tín dụng có sự ràng buộc giữa các thành viên với nhau. - “Chủ nghĩa tư bản” (capitalism) cũng có hiểu theo nhiều nghĩa (TLHT số 335, đã được trích dẫn trong nhập đề của mục II).
[4] Sự phân biệt giữa “luật tự nhiên” (loi naturelle, được hiểu như luật của Thiên Chúa, hoặc luật dựa trên bản chất sự vật) và “luật chế định” (loi positive: do nhà cầm quyền đặt ra) là điểm quan trọng trong thần học luân lý Công giáo: luật chế định xác định rõ ràng hơn nghĩa vụ của luật tự nhiên vào một nơi và một thời nhất định, nhưng không được trái ngược với luật tự nhiên.
[5]Thông điệp Laborem exercens (số 17) còn muốn phân biệt hai hạng doanh nhân: gián tiếp và trực tiếp. Doanh nhân “gián tiếp” là người thảo ra chính sách cho toàn thể doanh nghiệp (bao gồm luôn cả các thể chế, nhân viên quản trị, Nhà Nước); doanh nhân “trực tiếp” là người trực tiếp liên hệ với công nhân (ký hợp đồng, ấn định tiền lương). Doanh nhân trực tiếp cũng có thể là chính chủ nhân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét