Lời mở
Trong việc xây dựng nền nhân bản
toàn diện hướng đến nền văn minh tình yêu, chúng ta không thể không chú ý đến
việc rèn luyện thân thể bằng thể dục và thể thao. Chúng ta đã biết rằng thể dục
được hiểu là hệ thống các động tác tập luyện, thường được sắp xếp thành bài
nhằm giúp cho việc phát triển hài hoà của cơ thể, tăng cường và gìn giữ sức
khoẻ; còn thể thao là những hoạt động nhằm nâng cao thể lực con người, thường
được tổ chức thành các hình thức trò chơi, thi đấu theo những quy tắc nhất
định.
Ở Việt Nam, nhiều cộng đồng Công
giáo ít quan tâm đến thể dục thể thao (TDTT) dù Công đồng Vaticanô II đã nhắn
nhủ rằng: "Thể dục và các hoạt động thể thao giúp chúng ta giữ được
quân bình trong tâm hồn của mỗi cá nhân cũng như của xã hội, và giúp chúng ta
thiết lập được các mối tương quan huynh đệ giữa mọi người không phân biệt giai
cấp, quốc gia hay chủng tộc. Vì thế, các Kitô hữu phải cộng tác vào việc đem
tinh thần nhân bản và Kitô giáo thấm nhuần các sinh hoạt văn hoá tập thể, là
những sinh hoạt đặc biệt của thời đại chúng ta" (x. CĐ.Vat II, Hiến
chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 61).
Trong phạm vi bài này, chúng ta
sẽ cùng tìm hiểu sơ qua về hiện trạng TDTT trong cộng đồng Công giáo để tìm ra
những nguyên nhân tác động đến tình trạng này, tìm hiểu ích lợi của TDTT trong
đời sống và những đường hướng để cổ vũ sinh hoạt TDTT trong cộng đồng linh mục
hay tu sĩ để rồi qua đó ta hiểu được TDTT trong đời thường của người tín hữu.
1.1. Số liệu liên quan
Tính đến ngày 31-12-2010, Giáo hội Việt Nam hiện nay có
trên 4.050 linh mục, 3.946 chủng sinh, 2.281 tu sĩ nam, 15.352 tu sĩ nữ với
hàng ngàn cơ sở lớn nhỏ để phục vụ 6.400.567 tín hữu giáo dân (theo thống kê
Tổng Điều tra Dân số ngày 1-4-2009 là 5.677.086 người, tr. 281) trên tổng dân
số Việt Nam là 89.029.559 người (theo Thống kê Nhà Nước là 86.930.000 người,
theo Cục Thống kê Tp. HCM, tr 331). Số cơ sở được các linh mục tu sĩ phục vụ
gồm trên 2.500 giáo xứ lớn nhỏ, 1.097 nhà trẻ, lớp học tình thương, 106 trung
tânm văn hoá, 152 trung tâm lo cho di dân, sinh viên và gia đình, 205 trại
phong và tâm thần… (x. Thống kê của Văn phòng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt
Nam năm 2011).
1.2. Những phương tiện
chưa hợp lý
Ngoại trừ 7 đại chủng viện trên toàn quốc có sân chơi thể
thao cho các chủng sinh và khoảng một chục dòng tu nam lớn có sân chơi thể thao
hay phòng tập thể dục cho các tu sĩ đang được đào tạo của dòng, còn hầu hết các
cơ sở khác, nhất là các dòng tu nữ, đều không có sân chơi, không có phòng sinh
hoạt để có thể tập thể dục hay kê một vài bàn bóng bàn cho các tu sĩ sử dụng.
Nhiều tu viện có diện tích đất khá rộng, nhưng vẫn để trống đất hoặc làm vườn
hoa, trồng cây cảnh trong khi các tu sĩ trẻ cần vận động thì lại thiếu sân
chơi.
Một số xứ đạo có sân rộng quanh
nhà thờ, có khá nhiều đất trống bỏ hoang có thể xây dựng thành sân chơi cho
thanh thiếu niên hay sân tập thể dục cho người già. Nhiều xứ đạo có các phòng
rộng lớn sinh hoạt giáo lý mỗi tuần một hai ngày còn các ngày khác để không,
có thể kê vài bàn bóng hay bàn đánh cờ cho các thanh thiếu niên thì lại để
trống. Người ta không dám cho các em nhỏ hay người lớn sinh hoạt TDTT vì sợ bất
kính với Chúa, sợ tiếng ồn ngăn trở việc cầu nguyện. Hậu quả là giới trẻ và
người lớn không có dịp gặp gỡ sinh hoạt vui chơi với nhau để tăng thêm tình
liên đới trong cộng đồng.
1.3. Thiếu ý thức và
quan tâm
Tình trạng này bắt nguồn từ việc những người lãnh đạo các
cộng đồng giáo dân cũng như tu sĩ chưa ý thức được tầm quan trọng của TDTT
trong việc huấn luyện một nền nhân bản toàn diện cho con người cũng như giá trị
của những hoạt động TDTT trong đời sống. Công đồng Vaticanô II cũng nhắc nhở
rằng: “Những phương tiện như TDTT sẽ không đem lại một nền văn hoá giáo dục
toàn diện cho con người, nếu đồng thời con người không tìm hiểu ý nghĩa sâu xa
của văn hoá và khoa học về thể dục và thể thao đối với con người” (x.
CĐ.Vat II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 61).
Sự thiếu quan
tâm về TDTT không bắt nguồn từ việc thiếu những phương tiện như sân bãi, dụng
cụ TDTT, vì các cộng đồng có thể mua sắm hay xây dựng được, mà bắt nguồn từ
việc không nhận ra tầm quan trọng của TDTT trong đời sống cá nhân cũng như tập
thể, trong sinh hoạt thường ngày, trong đời sống trí thức cũng như hoạt động
truyền giáo. Nhiều người có trách nhiệm trong việc đào tạo đời tu đã không quan
tâm tới vấn đề sức khoẻ toàn diện của những người mình có trách nhiệm, không
đưa TDTT vào chương trình đào tạo, không đưa việc tập luyện thể dục và chơi thể
thao vào chương trình sống hằng ngày. Chỉ quan sát đời sống thực tế hay chương
trình sống trong cộng đồng tu trì ta cũng thấy ngay được điều đó.
Nhiều nữ tu
sĩ trẻ muốn chơi thể thao mà cũng không dám vì sợ bị chê trách, và nếu có chơi
thì cũng chẳng biết chơi thế nào theo đúng kỹ năng và kỹ thuật của mỗi môn.
Chúng tôi được biết một ít nữ tu trẻ tận dụng những phút rảnh rỗi hiếm hoi
trong ngày chơi cầu lông 10-15 phút chỉ để cho ra mồ hôi và tắm cho đỡ lạnh, vì
nhà dòng không có sẵn máy nước nóng. Một vài dòng nữ lớn cũng mua vài bàn bóng
bàn nhưng do không có giờ chơi rõ ràng, không có người huấn luyện cách chơi nên
cuối cùng bàn cũng để không, hoặc xếp vào góc nhà.
1.4. Hậu quả
Hầu hết các linh mục, tu sĩ nam trong thời gian được đào
đạo ở chủng viện hay học viện, đã rất tích cực tham gia các hoạt động TDTT,
nhưng sau khi chịu chức linh mục hay khấn trọn đời rồi lại không còn tập luyện
nữa. Nhiều người nêu lý do là phải đảm nhận nhiều trách nhiệm hay công tác mục
vụ nên không sắp xếp được thời gian tập luyện cho chính mình hay chơi chung với
người khác. Nhưng lý do chính yếu vẫn là thiếu ý thức về tầm quan trọng của TDTT trong đời
sống tự nhiên cũng như siêu nhiên của mình. Hậu quả của việc không sinh hoạt
TDTT thể hiện rõ qua hình thể bên ngoài của nhiều linh mục, tu sĩ không còn gọn
gàng, động tác không còn nhanh nhẹn, sức khoẻ suy yếu nhanh chóng và mang nhiều
bệnh tật. Đó là chưa kể đến những căng thẳng trong đời sống chung hay những dồn
nén sinh lý không được hoá giải nhờ hoạt động TDTT đã gây nên nhiều thiệt hại
lớn lao khác như chứng thủ dâm, đồng tính luyến ái, nghiện trò chơi trực tuyến
hay phim ảnh đồi truỵ…
Tình trạng thiếu sinh hoạt TDTT
cũng là tình trạng chung của cộng đồng xã hội. Đời sống kinh tế quốc dân còn
nghèo, nên việc xây dựng các sân vận động để tạo điều kiện cho dân chúng chơi
thể thao hay tập thể dục có thể được cho là một nhu cầu chưa cần thiết đối với
cộng đồng, vì có nhiều nhu cầu khác đáng quan tâm hơn, hoặc trở thành nhu cầu
xa sỉ đối với người nghèo. Mọi khoản thu nhập của đa số người dân Việt Nam hiện
nay hầu như được dùng cho việc ăn, uống (46%); đi lại và bưu điện (17,22%);
giáo dục (7,83%); đồ dùng (6,42%); nhà ở - điện nước - vệ sinh (6,07%); y tế
(5,27%); may mặc (3,63%) và các chi phí khác (3,85%). Người dân chỉ dành cho
mục văn hoá, thể thao, giải trí có 3,87% thu nhập, trong đó hầu hết cho văn hoá
và giải trí, còn thể thao dường như là con số không (x. Cục Thống kê, Thống
kê Tp. Hồ Chí Minh 2010, tr. 324).
2.1. Những lý do cụ thể
Vì TDTT là những yếu tố cần thiết trong việc đào tạo một
nền nhân bản toàn diện cho con người, chứ không phải chỉ riêng cho đời tu hay
đời sống Kitô hữu, nên sinh hoạt TDTT được phổ biến rộng rãi trong cộng đồng xã
hội. Lịch sử văn minh nhân loại đã minh chứng điều đó, khi các môn thể thao
được tổ chức ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Công nguyên trong nền văn minh
Hy Lạp. Còn ở châu Á, các nhà sư Thiếu Lâm, các ni cô phái Nga Mi ở Trung Hoa
tập võ để vừa rèn luyện thân thể vừa hoạt động cứu đời, là những thí dụ điển
hình của hoạt động thể thao trong đời tu.
Trong thực tế hiện nay, người ta
thấy các giáo sĩ và tu sĩ ít quan tâm đến hoạt động TDTT, dù những hoạt động
này là một phần cơ bản trong đời sống con người và sinh hoạt xã hội. Thực tế
này có thể bắt nguồn từ quan niệm về đời tu như một sự tách biệt với đời thường
trong xã hội. Tất cả các sinh hoạt hằng ngày của đời tu tập trung vào lĩnh vực
tri thức với những giờ học, giờ đào tạo tinh thần; vào lĩnh vực thiêng liêng
với những giờ phụng tự và cầu nguyện; và vào lĩnh vực mục vụ tông đồ với những
công việc thuộc trách nhiệm như coi giáo dân, dạy trẻ…, nhưng hầu như bỏ quên
hay xem thường lĩnh vực thể chất với những việc ăn uống, ngủ nghỉ, TDTT…
Tuy nhiên, đây có thể là một sự
lầm lẫn quan trọng trong công tác giáo dục và đào tạo hiện nay, vì lĩnh vực thể
chất được coi như nền tảng để xây dựng và phát triển ba lĩnh vực khác. Vì thế,
người Rôma từ ngàn xưa đã có câu cách
ngôn: “Hồn lành trong xác mạnh” (Mens sana in corpore sano). Nếu chúng
ta nghiên cứu Sắc lệnh Đào tạo Linh mục (SLĐTLM) (Optatam Totius) và Sắc
lệnh Canh tân Thích nghi Đời sống Dòng tu (SLCTTTĐSDT) (Perfectae Caritatis)
của Công đồng Vaticanô II, chúng ta thấy lĩnh vực này chưa được quan tâm đúng
mức vì các văn bản này của Công đồng không trực tiếp nhắc đến TDTT trong công
tác đào tạo đời tu. Có thể đây cũng là một lý do để những nhà đào tạo không
đưa TDTT vào chương trình đào tạo cơ bản chăng?
Từ đó, những người có trách nhiệm
trong các chủng viện và học viện cũng chưa quan tâm đủ đến những giờ tập thể
dục, chơi thể thao, giải trí trong chương trình sống hằng ngày. Người ta coi
thường việc ăn uống: ăn thế nào cũng được, uống thế nào cũng xong, mà không
tính toán lượng thực phẩm có đủ chất bổ dưỡng cho sinh hoạt hằng ngày hay
không; không dạy cách ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi như những bài học cơ bản;
không quan tâm đến việc xây dựng những nhà vệ sinh cho hợp lý, hoặc cung cấp
đủ những phương tiện vệ sinh cần thiết, đủ nước nóng trong mùa lạnh… cho các
thành viên.
Hơn nữa, người ta cũng quên đi
tính chất cộng đồng xã hội trong những trò chơi thể thao, nên việc thể thao trong
đời tu hiện nay chỉ còn mang tính tự phát, cá nhân riêng lẻ. Trong khi đó, xã
hội hiện nay tôn vinh những vận động viên TDTT như những anh hùng của đất nước
trong những cuộc tranh tài thế giới hoặc giới trẻ tôn vinh những vận động viên
nổi tiếng như những thần tượng. Tôi nhớ khi còn được đào tạo tại Giáo hoàng Học
viện Thánh Piô X ở Đà Lạt trong những năm 1966-1975, các cha Dòng Tên nhắc nhở
chúng tôi tầm quan trọng của TDTT trong đời sống tu trì, khi đau ốm chúng tôi
có thể bỏ dự thánh lễ không cần xin phép nhưng không bao giờ được phép tự động
bỏ giờ chơi ban chiều.
Tóm lại, việc coi thường TDTT
trong đời tu hiện nay bắt nguồn từ sự thiếu ý thức về giá trị cũng như tầm quan
trọng của TDTT trong việc gìn giữ sức khoẻ, trong sinh hoạt cộng đồng xã hội cũng
như trong công tác truyền giáo loan báo Tin Mừng. Tuy nhiên, chúng ta tự hỏi
nguyên nhân sâu xa nào dẫn đến tình trạng này.
2.2. Nguyên nhân sâu
xa là ảnh hưởng của thuyết Nhị Nguyên
Nhiều linh mục tu sĩ vẫn còn giữ quan niệm Nhị Nguyên
sai lạc của hàng chục thế kỷ trước đây: coi thường thân xác, cho rằng thân xác
thuộc về ma quỷ và tinh thần mới thuộc về Thiên Chúa; thân xác vật chất thì
nặng nề, chiều theo những dục vọng xấu xa nên cần phải hãm mình ép xác, ăn uống
kham khổ để làm chủ được dục vọng, cho tinh thần nhẹ nhàng thanh thoát, có thể
vươn lên và bay bổng tới Thiên Chúa.
Do đó, TDTT bị coi là những lĩnh
vực thuộc về thể xác không đáng quan tâm, thậm chí còn bị coi là nguy hiểm, tội
lỗi vì đó là những hành vi chiều chuộng thân xác. Quan niệm này đã bị Công đồng
Vaticanô II lên án và xác định: "Con người duy nhất với xác và hồn. Xét
về thể xác, con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc thế giới vật chất. Vì
thế, nhờ con người, những yếu tố ấy đạt được tới tuyệt đỉnh của chúng và tự do
dâng lời ca tụng Đấng Tạo Hoá. Vậy con người không được khinh miệt đời sống thể
xác. Trái lại, con người phải coi thân xác mình là tốt đẹp và đáng tôn trọng vì
thân xác ấy do Chúa tạo dựng và được sống lại vào ngày sau hết" (x.
CĐ.Vat II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 14).
Cũng từ quan niệm Nhị Nguyên này,
nhiều người vẫn kể thân xác là một trong ba kẻ thù: "ma quỷ, thế gian, xác
thịt ". Họ không quan tâm đến sự hợp nhất linh hồn và thân thể (x. Sách Giáo
lý của Hội Thánh Công giáo (GLHTCG), các số 327, 360, 362-368, 382). Người
ta sợ rơi vào não trạng tôn thờ thân xác, tôn thờ những ngẫu tượng, thần tượng
trong thể thao mà nhiều bạn trẻ đang chạy theo và tôn sùng những vận động viên
nổi tiếng hiện nay, nhất là muốn loại bỏ não trạng chọn lọc người khoẻ, đẹp và
loại bỏ người yếu, xấu vì có thể dẫn tới việc làm băng hoại các tương quan giữa
con người (x. GLHTCG, số 2289).
2.3. Cũng từ quan niệm Nhị Nguyên
này người ta cho TDTT là thừa thãi vì mất giờ, mất sức, tốn tiền. Nhiều tu sĩ
cho rằng thể thao chỉ thích hợp cho người ở ngoài đời, có điều kiện, nhưng
không hợp với đời tu, vì các môn thể thao phục vụ thân xác, thiếu sự điều độ
nết na khi các vận động viên hay những người chơi thể thao phải ăn uống tẩm bổ
hay mặc những quần áo thể thao có vẻ khoe những phần thân thể nhạy cảm, hoặc lộ
liễu của từng môn chơi.
3.1. Đào tạo toàn diện
con người
Con người toàn diện gồm nhiều lĩnh vực: thể chất
và tinh thần, nội tâm và ngoại giới, cá nhân và cộng đồng, tự nhiên và siêu
nhiên. Thể dục và thể thao mang lại rất nhiều những ích lợi cho việc phát triển
toàn diện con người và xã hội mà những người sống đời tận hiến không thể xem
thường. Chúng ta có thể tóm tắt các ích lợi chính sau đây:
3.1.1. Về lĩnh vực
thể chất và tinh thần
TDTT giúp tăng cường sức khoẻ thể xác và tinh
thần. Khi con người tập thể dục, chơi thể thao thì các bộ phận trong cơ thể đều
được vận động và phối hợp hài hoà, dẫn đến việc tăng cường sức khoẻ, chống lại
bệnh tật và thích nghi được với sự thay đổi thời tiết. Nhờ đó, con người sống
an vui và hạnh phúc, ổn định cả về thể xác cũng như tinh thần.
Ngoài ra, việc luyện tập TDTT còn
giúp cho con người phát triển hài hoà các chức năng của các bộ phận trong cơ
thể để sống trong sáng, lành mạnh, an vui. Việc luyện tập TDTT là một yếu tố
quan trọng giúp giảm bớt những đòi hỏi của dục tính, vượt qua thói thủ dâm, vì
sức lực tràn trề của tuổi trẻ được giải toả thành những hoạt động hữu ích qua
việc tiêu hao năng lượng trong thể dục, thể thao (x. SLĐTLM, số 10; SLCTTTĐSDT,
số 12).
3.1.2. Về lĩnh
vực nội tâm và ngoại giới
Con người khám phá ra mình
hiện hữu như một cái tôi độc lập, có khả năng hiểu mình, làm chủ mình và tự
quyết về mình (x. Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình (HĐGHCLHB), Tóm
lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo (TLHTXH), số 131). Khoa tâm
lý học cũng khám phá ra cấu trúc phức tạp của tinh thần với những tầng lớp: ý
thức, tiềm thức và vô thức tác động lên nhau, cũng như những khả năng lạ lùng
của con người với trí nhớ, trí hiểu, trí tưởng tượng, ý chí, cảm năng, hoạt
năng, khiến cho mỗi người trở thành độc đáo với sứ mạng riêng. Chính khi tập
thể dục, chơi thể thao, con người phát triển những khả năng tiềm tàng đó, nhờ
việc luyện tập thường xuyên và chơi chung với nhau.
Các quy luật trong thể dục và
nhất là thể thao cũng yêu cầu người tập phải tuân thủ cách chặt chẽ. Khi chơi
thể thao, người ta cần phải biết chơi chung với nhau, cộng tác với nhau, nhường
nhịn nhau, cùng theo đuổi một chiến thuật thì mới có thể cùng nhau chiến thắng.
Đó là phương thức giúp luyện tập và thể hiện đức bác ái, khả năng cộng tác với
người khác trong đời sống.
Thể dục và thể thao còn giúp
người ta luyện tập đức kiên nhẫn, hiền hoà, cao thượng, bình tĩnh khi đánh hỏng
hay bị thua thay vì cau có, chửi bới, la hét bạn bè hoặc chơi xấu, giở những
thủ đoạn để chiến thắng đối phương
3.1.3. Về lĩnh vực
cá nhân và cộng đồng
TDTT là phương cách giúp con người thể hiện tinh
thần tập thể và tôn trọng những mối tương quan trong xã hội như người ta phải
tôn trọng các vị trí, vai trò của các cá nhân trong một sân bóng: người thuộc
hàng tiền vệ giữ vai trò tấn công, người ở hàng hậu vệ có nhiệm vụ phòng thủ…
Qua việc tập thể dục và chơi thể thao, người ta cũng biết tôn trọng vai trò và
thể hiện trách nhiệm của mình đối với gia đình và xã hội. Hơn nữa, người ta còn
tập được tinh thần lãnh đạo khi biết phân công nhiệm vụ thích hợp cho đồng đội
trong những trận đấu, cũng như phân chia sức lực cho những đường đua dài để
chiến thắng.
3.1.4. Về lĩnh
vực tự nhiên và siêu nhiên
TDTT giúp cho con người làm chủ bản thân, nhận ra
giá trị cũng như những giới hạn của mình để hướng tầm nhìn về Chúa là nguồn sức
mạnh và sự sống, nguồn hạnh phúc và chân thiện mỹ. TDTT tập cho con người biết
làm chủ bản thân, với những tình cảm, thời giờ, tài năng, và cả những tham
vọng, dục vọng. Muốn thăng tiến trong lĩnh vực này, con người phải biết kiềm
chế để chơi đẹp trên sân bóng, để không ham chơi đến độ bỏ học hành làm việc,
phải biết sống điều độ, không “rượu chè, trai gái” để giữ sức khoẻ cho những
trận đấu. Khi bị thua thiệt hay thất bại, người chơi vẫn tin vào Chúa biết rõ
mọi sự để tha thứ và cảm thông cho sự yếu đuối, bất toàn của con người như khi
bị bắt lỗi sai, tính điểm thua trong trận đấu, cũng như giữ được bình tĩnh và
cao thượng mỉm cười với bạn bè khi họ đánh hỏng, làm mất cơ hội thắng điểm.
3.2. Hỗ trợ cho
việc loan báo Tin Mừng
3.2.1. Trong dòng lịch sử: TDTT tuy không phải là
đối tượng trực tiếp hay nội dung Tin Mừng nhưng có thể là phương tiện đóng góp
trực tiếp vào việc loan báo Tin Mừng. Ta có thể kiểm chứng điều này trong dòng
lịch sử.
Các vận động viên trong
các cuộc thi đấu Olympic Hy Lạp hay Rôma đều cầu khẩn các thần linh của mình
trước khi thi đấu và nếu họ thắng giải trong cuộc tranh tài, thì dân chúng công
nhận thần linh đó mạnh hơn đối phương. Đây cũng là một trong các lý do khiến
người tín hữu Công giáo thời xưa xa lánh sân vận động. Ở Trung Hoa, các vị sư
phái Thiếu Lâm hay các ni sư của nhiều hệ phái khác nhau luyện tập võ nghệ, dạy
võ cho quần chúng vừa để cho mình khoẻ mạnh vừa bênh vực kẻ yếu trong xã hội,
cũng là những tấm gương sáng thúc đẩy quần chúng tìm hiểu và theo đạo Phật.
Ở Việt Nam, vào những thời kỳ khó
khăn và bị bách hại, đạo Công giáo được truyền bá nhanh chóng một phần cũng nhờ
các nhà truyền đạo thời đó biết lợi dụng lòng ham chuộng TDTT của quần chúng.
Vào các chiều thứ Bảy, Chủ Nhật, cộng đồng Công giáo tổ chức thi các trò chơi
như đi cầu tre, bắt vịt dưới ao nhà thờ, kéo dây, đánh cầu… và cho cả lương dân
tham dự. Mọi người đều cười vui khi thấy các chàng trai bị té xuống hồ nước vì
trơn trượt trước khi nắm được phần thưởng treo ở đầu cây tre cắm giữa hồ. Trong
các buổi chơi đó lương dân thấy được đời sống vui tươi, chan hoà tình bác ái
của người Công giáo, cảm phục và nhiều người đã theo đạo. Ngay từ năm 1885, tỷ
lệ dân số Công giáo Việt Nam đã đạt tới 7% so với dân số cả nước, tuy nhiên cho
tới ngày nay, sau 125 năm, tỷ lệ ấy không những không tăng mà còn đang có chiều
hướng giảm (x. Niên giám Giáo hội Công giáo Việt Nam 2005, NXB Tôn Giáo,
2005. tr. 195-199).
3.2.2. Ngày nay, các vận động
viên thắng giải trong các cuộc thi đấu thể thao quốc tế hay quốc gia vừa là
những anh hùng nói lên sự ưu việt của dân tộc hay địa phương mình, vừa là gương
mẫu cho các thế hệ khác noi gương. Thí dụ như các cô gái Nhật Bản mới đoạt giải
vô địch bóng đá nữ thế giới trong tháng 8-2011 vừa qua. Do đó, ta không lạ gì
khi thấy nhiều dân tộc, nhiều tổ chức dùng TDTT như phương tiện để quảng cáo
cho đất nước hay tổ chức của mình. Tại sao Giáo hội Công giáo, nhất là Giáo hội
Việt Nam không dùng phương tiện này để loan báo Tin Mừng?
3.2.3. Chúa chúng ta không muốn
con người rơi vào lầm lạc của phái Nhị Nguyên hay phái Khắc Kỷ để coi thường
thân xác, nên đã cho Con của Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa nhận lấy xác thịt (x.
Ga 1,14) trở thành Đức Giêsu Kitô, trở thành con người giống chúng ta (x. Pl
2,7) trong mọi sự, chỉ trừ tội lỗi (x. Dt 4,15; CĐ. Vat. II, Hiến chế Mục vụ Gaudium
et Spes, số 22), để cứu độ con người toàn diện. Nếu Đức Giêsu đã trở nên
giống con người trong mọi sự thì chúng ta được quyền tưởng tượng trẻ Giêsu cũng
chơi đánh cầu, đánh khăng, đá bóng như các trẻ em cùng thời. Người coi trọng
thân xác nên đã hoá bánh ra nhiều cho kẻ đói ăn, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma
quỷ thay vì hô hào ăn chay, hãm mình phạt xác như các luật sĩ, biệt phái và các
môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả thường làm (x. Mt 9,14-17). Người muốn các môn đệ
mình phải khoẻ mạnh cả vể tinh thần lẫn thể xác. Người nói: “Từ thời ông Gioan
Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì
chiếm được” (Mt 11,12). Cuối cùng, Người đã chịu đóng đinh, chết nhục nhã và
sống lại bằng chính thân xác ấy vì muốn dạy ta biết dùng thân xác mình để mang
ơn cứu độ cho muôn loài.
Thánh Phaolô, có lẽ qua chính
kinh nghiệm bản thân của mình, nhiều lần nhắc đến thể thao: “Anh em không
biết sao, trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy,
nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được
phần thưởng. Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều… Vậy tôi đây cũng chạy
như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm
vào không khí” (1Cr 9, 24-27). Hoặc: “…vì tôi đã không chạy uổng công và
đã không lao nhọc vô ích” (Pl 2,16). Hay: “Hãy kiên trì chạy trong cuộc
đua giành cho ta” (Dt 12,1).
3.2.4. Tuy đã nhận được gương
sống của chính Đức Giêsu và lời dạy bảo của thánh Phaolô, nhưng tại sao người
tín hữu Công giáo vẫn quay lưng với TDTT? Câu trả lời phải tìm lại trong lịch
sử của chính TDTT cũng như lịch sử hình thành Kitô học.
Người Công giáo ngại ngùng với
thể thao, xa lánh sân vận động vì trong suốt 3 thế kỷ đầu cho đến năm 313, khi
hoàng đế Constantinus ra sắc chỉ Milan nhìn nhận Công giáo là tôn giáo hợp pháp
trên toàn đế quốc Rôma, thể thao không còn mang tính tranh tài trong sáng của
Olympic Hy Lạp, nhưng trở thành nỗi ô nhục và kinh hoàng cho tín hữu Công giáo.
Sân vận động là nơi hành hình tín hữu, các thanh niên trở thành những tên nô lệ
phải giác đấu cho đến chết, các phụ nữ và trẻ em thành miếng mồi ngon cho thú
dữ cắn xé để mua vui cho quần chúng trên khán đài.
Lịch sử hình thành Kitô học còn
giúp ta hiểu tại sao cho đến thế kỷ 20, Công giáo vẫn bị ảnh hưởng nặng nề của
thuyết Nhị Nguyên vì trong 5 thế kỷ đầu tiên, các nhà thần học đề cao thần tính
của Chúa Giêsu và cho nhân tính của Người nhỏ bé như giọt mật tan trong đại
dương bao la của thần tính. Sau những tranh cãi gay gắt của các trường phái về
sự phối hợp giữa hai bản tính nơi Đức Giêsu và với định tín của Công đồng
Calcêđônia năm 451, thần học Công giáo không dám nói nhiều về thân thể Đức
Giêsu cho đến giữa thế kỷ 20, ngoại trừ một ít phát biểu của vài vị thánh nổi
tiếng như Augustinô, Tôma Aquinô. Các nhà thần học thời đó chủ trương rằng chỉ
có Đức Giêsu nhận lấy bản tính nhân loại tốt lành trước khi nguyên tổ Ađam phạm
tội, còn mọi người đều mang bản tính đã bị hư hỏng vì tội nguyên tổ, nên thân
xác là nguồn gốc mọi tai hoạ và hư hỏng của con người. Công đồng Vaticanô II và
Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo (SGLHTCG) đã giải thích cho chúng ta
hiểu Đức Giêsu mang lấy bản tính suy đồi của con người sau khi Ađam phạm tội
(x. Dt 4,15; CĐ. Vat. II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 22;
SGLHTCG, số 461-483), để mời gọi ta quý trọng và rèn luyện thân xác mình.
3.2.5. Hơn nữa, người Công giáo
chỉ có thể làm chứng cho Tin Mừng về Ngôi Lời Nhập Thể, làm chứng cho Chúa là
nguồn chân thiện mỹ nếu chúng ta dám thay đổi cách sống, từ bao nhiêu thế kỷ
nay bị ảnh hưởng bởi thuyết Nhị Nguyên và phái Khắc Kỷ đã coi thân xác là thù
địch của linh hồn thay vì phải coi thân
xác là phương tiện mang lại ơn cứu độ. Cho đến đầu thế kỷ XX nhiều dòng tu
vẫn có những luật lệ hết sức nghiêm khắc về cách ăn uống, hãm mình, đánh tội
như một phương cách để kiềm chế những dục vọng, nhiều linh mục triều cũng như
dòng vẫn giảng dạy theo hướng Nhị nguyên và khắc kỷ đó. Với thân xác yếu nhược
tàn tạ, nhiều tu sĩ cũng không đủ điều kiện để phát huy những tài năng tinh
thần. Nói như thế không phải chúng tôi cổ vũ cho một đời sống phóng túng, xem
thường việc hy sinh, hãm mình. Quả thực,
việc ăn chay hãm mình thật sự vẫn có giá trị trong đời sống để giúp ta gắn bó
mật thiết với Đức Kitô như vị Hôn Phu nhưng không phải theo hướng thù địch với
thân xác.
Người ngoài Công giáo làm
sao có thể nhận ra Thiên Chúa là nguồn mọi sự tốt đẹp qua những thân xác yếu
đuối, khuôn mặt xanh xao, cơ thể đầy bệnh tật dù đang ở tuổi thanh niên hay
trưởng thành? Đời sống tín hữu với chương trình sống điều độ, được đào luyện
thêm TDTT, chắc chắn sẽ giúp cho họ có sức khoẻ dẻo dai để học hành làm việc,
phục vụ tha nhân, có thân thể cân đối, ngay cả xinh đẹp, để có sức thu hút
người khác đến với Đức Kitô. Nhất là đối với con người có khuynh hướng duy vật,
duy thực, duy nghiệm hiện nay thì thân xác tươi trẻ khoẻ mạnh chính là hình ảnh
sống động của Tin Mừng. Cách ngôn Việt Nam ta có câu: “Xem mặt mà bắt hình
dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon” kia mà!
Hơn nữa nếu các xứ đạo, tu viện
biết lợi dụng những khoảng đất trống cho TDTT để quy tụ thanh thiếu niên ham
thích vận động cũng như những người già lão mong muốn tập những bài thể dục
dưỡng sinh, những nơi ấy sẽ là điểm gặp gỡ để ta giới thiệu Đức Kitô cho người
khác một cách sống động và hiệu quả, có thể còn hiệu quả hơn cả những buổi cầu
nguyện hình thức, những bài giáo lý khô khan hoặc trình diễn thánh ca một đôi
lần trong năm. Những cuộc thi đấu TDTT tại các xứ đạo hoặc dòng tu sẽ trở thành
những dịp rao giảng Tin Mừng về mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế của Ngôi Lời một
cách rõ ràng và hiệu quả cho người ngoài Công giáo.
Chúng ta hãy tưởng tượng qua việc
được đào tạo đúng đắn, qua việc tập luyện thường xuyên TDTT, những linh mục, tu
sĩ vừa trở thành huấn luyện viên cho các bộ môn trong xứ đạo hay cộng đồng xã
hội, vừa có thể trở thành những vận động viên tham gia vào hoạt động TDTT của
địa phương. Điều này sẽ giúp cho dân chúng hiểu rõ hơn về việc hội nhập văn hoá
của Tin Mừng vào đời sống cộng đồng xã hội. Hơn nữa với tinh thần tập luyện của
người tín hữu cũng như với ơn Chúa, chúng ta có thể chiếm được những giải
thưởng cao quý như vô địch toàn thành, vô địch quốc gia. Lúc ấy ảnh hưởng của
những vận động viên Công giáo hay của dòng tu sẽ là lời mời gọi hiệu quả và
thiết thực đối với người khác, nhất là các thanh thiếu niên, đến với Đức Kitô
hay đến với đời sống tu trì.
Chúng ta có thể tóm lại những
điểm muốn lưu ý về TDTT trong lĩnh vực loan báo Tin Mừng bằng lời mời gọi của
Giáo Hội được công bố ngày 2-2-2011, trong bản Đề cương của Thượng Hội đồng
Giám mục - Đại hội Thường kỳ lần thứ XIII sẽ họp năm 2012 tại Rôma, với chủ đề Tân
Phúc Âm hoá để truyền bá đức tin Kitô giáo như sau: “Các hoàn cảnh mới trong sứ mạng của Giáo Hội làm chúng ta nhận ra rằng,
rốt cuộc, thành ngữ Tân Phúc Âm hoá
đòi phải tìm ra những phương thức mới để rao giảng Tin Mừng hầu có thể “là Hội
Thánh” trong những tình hình xã hội và văn hoá không ngừng thay đổi hôm nay”
(Tài liệu Thượng Hội đồng 2012, số 9). Chúng tôi nghĩ rằng TDTT phải là một
trong những phương thức mới cho các tín hữu của Giáo Hội Công giáo trong
việc loan báo Tin Mừng.
Chúng
tôi xin đưa ra vài đường hướng cơ bản để từng cá nhân cũng như các cộng đồng
Công giáo có thể tự tìm câu trả lời cụ thể cho mình.
- Đưa TDTT vào chương trình
đào tạo chính quy cho giáo sĩ, tu sĩ: Mỗi năm mời các chuyên gia TDTT để
huấn luyện cho linh mục, chủng sinh, tu sĩ một số môn thể thao: học cách chơi,
luật chơi, cách tổ chức chơi trong xứ đạo như cầu lông, bóng bàn, bóng ném,
bóng đá, cờ vua,... và xem TDTT là
phương tiện truyền giáo hữu hiệu cho giới thanh thiếu niên hơn nhiều môn khác
như cắm hoa, đánh đàn, tập hát thánh ca vì TDTT phổ biến hơn đối với lương dân
và cộng đồng xã hội.
- Đưa TDTT vào chương trình
sống hằng ngày, để tạo điều kiện cho mọi người trong cộng đồng, nhất là đối
với các người trẻ, mỗi ngày có thời gian chơi thể thao, cộng thêm những phút
tập thể dục ban sáng. Trong giờ thể thao mọi người đều được yêu cầu phải vận
động, trừ trường hợp đau bệnh. Người yếu, cao tuổi có thể đi bộ. Mùa thi càng
không nên bỏ chơi để học bài.
- Tạo điều kiện để chơi:
Mua bóng, vợt, lưới, cầu... Nếu cộng đồng có khả năng, có thể làm cả sân chơi,
nhà chơi, tổ chức các đội bóng (bóng chuyền, bóng đá, bóng bàn, cầu lông, cầu
mây…) và khuyến khích thi đấu với các cộng đồng khác.
- Tạo điều kiện để biết chơi,
chơi hay, chơi đẹp: nhờ những huấn luyện viên thể thao vào biểu diễn hoặc
cùng chơi để huấn luyện cho các chủng sinh, tu sĩ, tín hữu giáo dân thấy được
cái hay cái đẹp của những môn thể thao mình muốn tập, giới thiệu những đoạn
phim về TDTT (có rất nhiều trên mạng internet).
- Các vị lãnh đạo cộng
đồng, bề trên dòng tu, các linh mục coi xứ đạo nên tham gia trực tiếp hay gián
tiếp các hoạt động TDTT, khi có dịp, nhằm cổ vũ tinh thần "chơi cho khoẻ để
phục vụ Chúa và tha nhân" thay vì có thái độ lãnh đạm, hoặc ngăn cấm.
- Tổ chức các giải thi đấu
giữa các tín hữu hay tu sĩ trong cộng đồng, tu viện, giáo xứ, giáo phận hay
toàn quốc về những bộ môn thể thao có nhiều quần chúng tham gia như: bóng bàn,
bóng chuyền, bóng đá, cầu lông, cầu mây, các bộ môn võ thuật như Vovinam, Judo,
Taekondo, Aikido … để tạo điều kiện gặp gỡ, giao lưu giữa các cộng đồng trong
và ngoài Công giáo. Các giải này nên có phần thưởng, có sự tham dự của lãnh đạo
Giáo Hội.
- Tổ chức các buổi
thuyết trình, hội thảo về các đề tài liên quan đến TDTT trong lĩnh vực đào
tạo nền nhân bản toàn diện, lĩnh vực truyền giáo, lĩnh vực tu đức, trong việc
thể hiện 3 Lời Khấn của tu sĩ, trong mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế của Ngôi
Lời Thiên Chúa… để gây ý thức cho cộng đồng.
Kết luận
Công cuộc xây dựng nền văn minh
tình yêu khởi đầu từ mỗi Kitô hữu khi từng người nhận thức được mình là hiện
thân sống động của Đức Giêsu Kitô để phát triển đời sống tự nhiên và siêu nhiên
của mình bằng những cố gắng tích cực trong đời sống thường ngày từ việc ăn
uống, ngủ nghỉ, học hành, lao động cho đến việc cầu nguyện, tham dự phụng vụ bí
tích, trong đó có hoạt động thể dục thể thao. Mỗi người tín hữu đều có quyền mơ
ước trở thành con người khoẻ mạnh, tốt đẹp, đầy quyền năng như Đức Giêsu để thu
hút người khác đến với Chúa Cha. Niềm mơ ước này chỉ trở thành hiện thực nếu
ngay từ bây giờ chúng ta bắt đầu đổi mới tư duy, đổi mới hành động. Với ơn
thánh trợ giúp và sự tham gia của cộng đồng, chắc chắn chúng ta sẽ thành công.
Câu hỏi thảo luận
1. Bạn có tập thể dục thường
xuyên không?
2. Bạn có biết chơi một môn thể thao nào không?
--o0o--
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét