Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Lời mở đầu
“Văn minh tình yêu” là một khẩu
hiệu được nhiều cộng đồng Công giáo hô hào và là cụm từ được nhắc đến thường xuyên trong những
văn bản của Giáo hội Công giáo. Đây là dấu hiệu tốt nói lên sự quan tâm của
Giáo hội Công giáo và nhiều tín hữu thật sự muốn xây dựng và thể hiện nền văn
minh tình yêu trong đời sống cho cộng đồng nhân loại.
Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy
tin vào tình yêu Thiên Chúa vì: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con
Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”
(Ga 3,16). Tin vào tình yêu ấy ta mới có thể sống trong niềm vui, hạnh phúc và
hy vọng. Nhiều người Công giáo chúng ta đã nghe nói rất nhiều về yêu thương, về
bác ái. Nhưng tình yêu là gì và yêu thương như thế nào? Có lẽ chúng ta nên dành
ít phút này để ôn lại bài học cơ bản đó.
Trong phạm vi bài này, chúng
tôi chỉ muốn cùng các bạn tìm hiểu khái quát xem Giáo huấn Xã hội Công giáo
(GHXHCG) nói gì về nền văn minh tình yêu (VMTY) và trình bày sơ đồ việc xây
dựng nền VMTY nơi con người Việt Nam như một gợi ý cho hoạt động của Giáo hội
Công giáo Việt Nam.
Bài được trình bày theo những
điểm chính sau đây:
1. Xác định từ ngữ;
2. Giáo huấn xã hội của Công
Giáo và nền văn minh tình yêu;
3. Lược đồ xây dựng nền văn
minh tình yêu nơi người Việt Nam .
Trước hết chúng ta thấy cần phải xác định ý nghĩa của 2 từ “văn minh”
và “tình yêu”.
1.1. Văn minh
1.1.1. Định nghĩa
Theo nghĩa chữ: văn là vẻ đẹp, là cái
có giá trị, là văn hoá; minh là sáng. Văn minh là điểm sáng của vẻ đẹp,
của giá trị, là đỉnh cao của văn hoá.
Giáo sư Trần Ngọc Thêm khi phân
biệt văn minh với văn hoá có nhắc đến văn minh là khái
niệm mang tính quốc tế, có nguồn gốc từ phương Tây đô thị và chỉ trình độ phát
triển nhất định của văn hoá chủ yếu về phương diện vật chất. Còn văn hoá là một
“hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần, do con người sáng tạo ra và
tích luỹ qua quá trình hành động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” (x. Trần Ngọc Thêm, Tìm hiểu về
Bản sắc Văn hoá Việt Nam, NXB Tổng Hợp TP.HCM, 2004, tr. 25-27).
Công đồng Vaticanô II đã xác
định văn hoá có ý nghĩa bao trùm toàn bộ sinh hoạt của con người: “Theo
nghĩa tổng quát, từ văn hoá chỉ tất cả những gì con người dùng để trau dồi và
phát triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; cố gắng chế ngự cả
trái đất bằng tri thức và lao động; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình
cũng như đời sống chính trị trở thành nhân đạo hơn, nhờ sự tiến bộ trong các
tập tục và định chế; sau hết, diễn tả, thông truyền và bảo tồn trong các công
trình của mình, những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của các thời
đại, để giúp cho nhiều người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn” (x. HC Gaudium
et Spes, số 53).
Vì thế, văn minh gắn chặt với
văn hoá, với những giá trị cao quý mà văn hoá đạt được nhưng ở mức độ cao hơn
cả về vật chất lẫn tinh thần (x. Cđ. Vaticanô II, HC Mục vụ Gaudium et Spes số 9, 19, 27, 45, 53,
54, 59).
Theo định nghĩa của các từ
điển:
- Văn minh là trình độ đạt được trong sự
phát triển văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của loài người trong từng giai
đoạn (x. Hội đồng Quốc gia, Từ điển Bách Khoa Việt Nam , NXB Từ Điển Bách Khoa,
2005).
- Văn minh là trình độ
phát triển đạt đến một mức nhất định của xã hội loài người, có nền văn minh vật
chất và tinh thần với những đặc trưng riêng (x. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển
Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2005).
1.1.2. Phân loại
Nói chung, văn minh đối lập với
những gì là lạc hậu, dã man, phản tiến bộ, phi nhân tính. Văn minh là một giai
đoạn trong sự phát triển của nhân loại đi từ giai đoạn mông muội, dã man tới
văn minh (x. Tự điển Bách khoa Việt Nam ).
Người ta thường chia văn minh
cổ đại và văn minh hiện đại. Văn minh cổ đại tiêu biểu là sự phát triển rực rỡ
của các quốc gia Ai Cập, Hy Lạp, La Mã Cổ đại. Văn minh hiện đại gắn liền với
cuộc cách mạng công nghiệp và hậu công nghiệp. Văn minh hiện đại còn được chia
thành: văn minh công nghiệp và văn minh tin học gắn liền với cuộc cách mạng kỹ
thuật điện tử tin học hiện nay.
Trong lịch sử, người ta còn
nhắc đến các nền văn minh Inca, Maya, Sông Hằng, văn minh nông nghiệp, văn minh
lúa nước như ở Việt Nam và một số nước châu Á.
1.2. Tình yêu
1.2.1. Định nghĩa
Đây là một từ rất khó định nghĩa dù nó
luôn được nhắc đến trong đời sống thường ngày.
Nói đến tình yêu, nhiều người
sợ, không dám yêu, vì người ta hiểu lầm về tình yêu và không giải nghĩa được
tình yêu một cách trọn vẹn. Thấy các em nhỏ mới học lớp 1, lớp 2 viết thư nói
yêu bạn trai hoặc bạn gái trong lớp, người ta ngăn cấm vì nghĩ rằng yêu là
chuyện của người lớn. Nhiều người cao tuổi cũng không dám nói đến yêu vì sợ
hiểu lầm có chuyện quan hệ thân xác. Thế rồi người ta nói đến tình thương thay
cho tình yêu. Thương thì được, còn yêu thì không, nhất là với giới tu hành.
4 cuốn Từ điển Bách Khoa Việt Nam
hiện nay vẫn chưa có định nghĩa từ này.
Từ điển Tiếng
Việt của Viện
Ngôn ngữ học diễn tả: “Tình yêu là tình cảm nồng nhiệt làm cho gắn bó mật thiết
và có trách nhiệm với người, với vật”. Thí dụ: Tình yêu quê hương. Nghĩa thứ
hai “Tình yêu là tình cảm yêu đương nam nữ”.
Chính vì để tránh hiểu lầm theo
nghĩa thứ hai, nhiều bản văn Công giáo dùng từ “tình thương” thay cho tình yêu.
Một vài địa phương đồng hoá tình thương với tình yêu. Tuy nhiên, tình thương theo định nghĩa là “có
tình cảm gắn bó và thường tỏ ra quan tâm săn sóc”, nhất là nó mang đặc tính
“thương hại” vì “cảm thấy đau đớn, xót xa trong lòng trước cảnh ngộ không may
nào đó”.
Khi đồng hoá tình yêu với tình
thương, người ta làm nghèo ý nghĩa của tình yêu. Khi nói mình thương Thiên Chúa
thì không biết Chúa có gặp cảnh ngộ không may nào không! Chúa thương chúng ta
thì đúng vì chúng ta có những hoàn cảnh không may, nhưng chúng ta thương Chúa
thì có lẽ chưa đúng lắm vì Chúa là Đấng hoàn hảo, giàu sang vô cùng, thánh
thiện vô biên.
1.2.2. Phân loại
Đức Thánh Cha (ĐTC) Bênêđictô XVI trong
thông điệp Deus Caritas est (Thiên Chúa là Tình yêu) công bố ngày
29-5-2005 cũng đã dành nhiều số để phân loại và xác định ý nghĩa của tình yêu
(x. ĐTC Bênêđictô XVI, Deus Caritas est, số 3-11).
Ngôn ngữ Công giáo Tây Phương
phân biệt nhiều loại tình yêu theo các nghĩa dịch từ chữ amor và caritas
của tiếng Latinh hay từ eros (tình ái), philia (tình bằng
hữu) và agape (tình bác ái ) của tiếng Hy Lạp.
Người ta phân loại tình yêu
chiếm hữu (amor concupiscentiae) và tình yêu vị tha (amor
benevolentiae), eros (tình yêu nhận về) và agape (tình yêu
cho đi), eros (tình yêu nhằm những rung động thể xác) và agape
(tình yêu hướng đến những hạnh phúc tinh thần).
Nhiều khi chúng ta được giảng
dạy chỉ nên có tình yêu vị tha, cho đi với những hạnh phúc tinh thần hơn là
kiểu tình yêu chiếm hữu, nhận vào với những rung động thể xác.
Tuy nhiên, Đức Thánh Cha đã
nhắc nhở chúng ta: con người là một thực tại duy nhất hướng đến nhiều lĩnh vực
khác nhau, và tình yêu là hoạt động của con người cũng chỉ là một thực tại duy
nhất với những chiều kích khác nhau. Vào những thời điểm khác nhau thì chiều
kích này có thể xuất hiện rõ hơn chiều kích khác. Nếu tách rời những chiều kích
tình yêu, chúng ta chỉ làm nghèo nàn nó (số 8) và nó cũng không còn là tình yêu
của con người.
Khi Thiên Chúa dựng nên con
người giống hình ảnh mình, trao tình yêu cho con người là Ngài muốn cho con
người thật sự yêu thương toàn diện và vô biên như Ngài. Con người được mời gọi
mở ra cho những chiều kích mới mẻ của tình yêu mà Thánh Kinh đã diễn tả cho
chúng ta (số 9-11), nhất là mời gọi chúng ta thể hiện tình yêu như Đức Kitô vì
Đức Kitô là hiện thân của Thiên Chúa Tình yêu (số 12-15).
2.1. Một vài số liệu đáng ghi nhận
Cụm từ “Văn minh Tình yêu” có lẽ được dùng
đầu tiên với ĐTC Phaolô VI vào năm 1977, trong Thông điệp Ngày Hoà bình Thế
giới và được ĐTC Gioan Phaolô II nhắc đến ở số 10 của Thông điệp Centesimus
Annus (Bách Chu Niên) năm 1991 (x. Tóm
lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo (TLHTXHCG), số 103). Kể từ
đó, từ này càng ngày càng được phổ biến trong các văn kiện của Giáo Hội.
Trong toàn bộ cuốn Tóm Lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công
giáo, chúng ta thấy từ “văn minh tình yêu” chỉ được nhắc đến 3 lần ở các số
103, 391 và 582 mà thôi. Nó thua xa từ “văn hoá” được nhắc đến ở 110 số khác
nhau và từ “tình yêu” được nhắc đến 132 số của cuốn sách và chỉ thua sau từ
“con người”, được đề cập ở 332 số và là từ được nhắc đến nhiều nhất trong toàn
bộ cuốn Tóm Lược.
Chúng tôi lưu ý mấy số liệu này
để như muốn nói rằng nền VMTY mà Giáo huấn xã hội của Giáo hội Công giáo đề cập
đến là một chủ đề bao gồm toàn bộ học thuyết xã hội Công giáo đặt nền tảng trên
tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người cũng như của con người dành cho
Thiên Chúa, cho anh chị em, cho vạn vật và cho chính mình.
2.2. Ý nghĩa của nền văn
minh tình yêu
Khi cổ vũ cho một nền văn minh lấy tình
yêu là nền tảng để xây dựng mọi mối tương quan của con người, là tiêu chuẩn để
phán đoán mọi hành động nhân linh và là cùng đích để mọi hoạt động của con
người hướng đến, Giáo hội muốn xây dựng một nền nhân bản toàn diện và liên đới
cho con người (x. TLHTXHCG, số 1-19;
20-59; 105-159).
Tình yêu này không phải là
những rung động nhất thời của con người dù mãnh liệt nhưng vẫn bị giới hạn bởi
vật chất, không gian, thời gian, nhưng là một thực thể siêu việt, vĩnh hằng, vô
biên, vô tận là chính Thiên Chúa như ĐTC Bênêđictô đã xác định “Thiên Chúa là
Tình yêu” (x. 1Ga 4,8.16).
Quả thực, kể từ khi con người
biết suy tư xuất hiện cách đây 40.000 năm, chưa bao giờ con người thiết lập hay
xây dựng được nền văn minh dựa trên tình yêu mà chỉ dựa vào sức mạnh của thiên
nhiên để bái vật, sức mạnh của sản phẩm nông nghiệp, của cơ khí công nghiệp hay
cuối cùng là của kỹ thuật tin học như ta đang sống trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả là con người càng đặt
nền văn minh dựa trên giá trị vật chất kỹ thuật, gắn bó nhiều với sức mạnh của
thiên nhiên hay của chính mình, con người càng sống trong bất an và bất định,
với những cuộc chiến tranh huỷ diệt, tương tàn.
Lịch sử văn minh nhân loại đã
minh chứng điều đó. Những nước thuộc nền văn minh cổ đại như Ai Cập, Lưỡng Hà,
Hy Lạp, La Mã bây giờ còn đâu! Những nền văn minh như Maya, Inca ở châu Mỹ, Hồ
Sat ở châu Phi, Indus ở châu Á với sông Ấn, sông Hằng còn lại được gì?! Những
nền văn minh công nghiệp hiện đại lúc nào cũng nơm nớp lo sợ những cuộc chiến
tranh thế giới lan rộng, khốc hại hơn 2 cuộc thế chiến vừa qua (1914-1918 và
1939-1945) mà 2 quả bom hạt nhân nổ ở Hiroshima và Nagasaki năm 1945 là dấu
hiệu báo động của tiến bộ công nghệ trong nền văn minh này.
3.1. Nguyên tắc xây dựng nền VMTY
Chúng ta không cần dài dòng về những lập
luận, những lý thuyết về tình yêu khi chúng ta hiểu được Đức Giêsu là tình yêu
cụ thể của Thiên Chúa. Vì thế, muốn xây dựng nền VMTY đích thực và bền vững,
chúng ta phải gắn bó mật thiết với Đức Kitô để Người chuyển thông cho chúng ta
tình yêu Thiên Chúa và để Thánh Thần Tình Yêu biến đổi tình yêu tự nhiên của
chúng ta thành tình yêu tuyệt đối vĩnh hằng, vô biên của Thiên Chúa. Yêu là sống,
không yêu là chết vì Thiên Chúa hằng sống cũng là Thiên Chúa tình yêu. Muốn
sống dồi dào, mãnh liệt, vĩnh hằng, ta phải yêu như Đức Giêsu.
Con đường tình yêu này chỉ đơn
giản là vậy, nhưng khi thực hiện lại rất khó khăn vì mỗi người chúng ta là một
thực thể vô cùng phức tạp và nhiệm mầu. Tình yêu thực sự không chỉ đơn giản là
tình yêu mông lung mà phải gắn liền với sự thật (x. ĐTC Bênêđictô XVI, Thông
điệp Caritas in veritate (Bác ái trong sự thật). Đó là sự thật về chính
bản thân con người và cả những yếu tố hình thành và tác động trên con người là
xã hội, môi trường và vạn vật. Trên tất cả, sự thật này là chính Thiên Chúa, là
Đức Giêsu Kitô - Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, mà con người phải tìm hiểu, yêu
mến và gắn bó mật thiết thì mới thấy được phẩm giá cao quý của mình và vạn vật.
3.2. Xây dựng nền VMTY nơi người Việt Nam
Để xây dựng nền VMTY nơi người Việt Nam ,
không phải chúng ta áp dụng chung một khẩu hiệu yêu thương cho cả tỷ người Công
giáo, mà cần phải nhìn vào con người cụ thể của mình. Con người này gồm nhiều
yếu tố mà chúng ta sẽ bàn đến ở phần sau.
Vậy con người Việt Nam thật sự
là ai, cấu trúc tâm lý xã hội văn hoá với các tầng lớp trong lịch sử hình thành
dân tộc như thế nào, con người VN có những đức tính xã hội và tật xấu nào cho
việc xây dựng nền VMTY? Sau khi khám phá sự thật về con người VN nói chung, mỗi
người chúng ta còn được mời gọi để khám phá sự thật về chính mình với những
hoàn cảnh, điều kiện khác nhau của cuộc sống để xây dựng nền VMTY nơi chính
mình.
3.3. Sơ đồ xây dựng nền VMTY
Đây là công trình lớn lao, đòi hỏi nhiều
thời gian nghiên cứu, cộng tác của nhiều người. Chúng tôi chỉ xin tóm lược
thành một sơ đồ là một tiến trình gồm 3 bước để xây dựng nền VMTY mà chúng ta
sẽ cùng nhau bàn luận:
*Bước thứ nhất: Khám phá con
người toàn diện nhờ GHXHCG
Giống như tất cả mọi loài thụ
tạo, chúng ta được mời gọi để tìm hiểu về nguồn gốc hình thành nên con người,
cũng là nguồn gốc hình thành nên nhận thức về Thiên Chúa và những nhận thức
khác nơi con người.
Cuộc tiến hoá của vũ trụ vật
chất diễn ra từ 15 tỷ năm qua sau vụ nổ “big bang”, 12 tỷ năm trước xuất hiện
mặt trời, 8 tỷ năm trước trái đất xuất hiện nhờ tách ra từ mặt trời, sau đó các
chất khí phối hợp với các chất khác hợp thành những hợp chất vô cơ, rồi hữu cơ
và 1 tỷ năm trước xuất hiện tế bào sự sống đầu tiên. Rồi từ đơn bào xuất hiện
đa bào, các sinh vật đơn giản đến sinh vật có xương sống, đến con khỉ, vượn
người và con người tiền sử đứng thẳng cách đây 1 triệu năm, cuối cùng là “con
người biết suy tư” (homo sapiens) như chúng ta.
Nếu chỉ nhìn vào mình trong
dòng tiến hoá, con người sẽ không bao giờ tìm ra được nguồn gốc, giá trị và ý
nghĩa sự hiện hữu của mình giống như khi chỉ nhìn vào và phân tích mấy bộ phận
của một cây viết hay chiếc đồng hồ. Nhờ tinh thần biết suy tư, con người vượt
ra khỏi vòng tiến hoá để khám phá ra nguồn gốc của vạn vật và của chính mình.
Con người biết mình bắt nguồn từ chính Thiên Chúa như nguồn cội của sự sống,
của chân thiện mỹ, của hạnh phúc vô biên và con người đang cảm nhận được những
điều đó trong từng giây phút sống.
Có xác định được cội nguồn, con
người mới thấy mình có mối tương quan chặt chẽ với Thiên Chúa và các mối tương
quan khác (với tha nhân, vạn vật, và chính mình) cũng như trong 4 lĩnh vực khác
nhau (thể xác và tinh thần, nội tâm và ngoại giới, cá nhân và tập thể, tự nhiên
và siêu nhiên). GHXHCG đã nói rất rõ những điểm này trong nền nhân bản toàn
diện và liên đới được trình bày trong phần Mở đầu và 4 chương đầu của cuốn TLHTXHCG.
* Bước thứ hai: Khám phá ra
con người cụ thể nhờ các khoa học xã hội nhân văn
Con người cụ thể hình thành từ
3 yếu tố:
- di sản văn hoá: do cha mẹ, ông bà, tổ
tiên truyền lại.
- giáo dục tự thân: do chính bản thân học
hỏi làm việc, tập luyện cho mình.
- môi trường xã hội: do những tác động của
môi trường sống ảnh hưởng đến con người.
Từ những con người cụ thể này
các cộng đồng xã hội được hình thành: gia đình, cộng đồng, dân tộc, nhân loại.
Muốn xây dựng nền VMTY, chúng ta phải bắt đầu từ những con người cụ thể, không
phải từ những con người chung chung theo bất cứ lý thuyết hay ý thức hệ nào.
Phân tích yếu tố I: Di sản văn hoá
Chúng ta hiểu mình là người VN,
có bản sắc văn hoá riêng của người VN. Bản sắc này hình thành trong lịch sử dân
tộc giống như những lớp đất chồng chất lên nhau mà nhà khảo cổ đã khám phá, tươmg
tự như tâm lý học đã khám phá ra những tầng cấu trúc tâm lý, thì mới mong
“trồng người” cách hiệu quả.
Chúng ta có thể nói sơ qua cấu
trúc văn hoá này:
Dân tộc VN hình thành từ các
chủng Cổ Mã Lai và Nam Á cách đây từ 10.000 năm đến 4.000 trước Công nguyên
(TCN). Từ 4.000 năm đến năm 111 TCN, dân tộc Việt sống thành những bộ lạc có
nền văn hoá nông nghiệp lúa nước, tin vào Ông Trời, văn hoá phồn thực, trọng
nữ, trọng đức, trọng tình, trọng nghĩa, yêu chuộng và gắn bó với thiên nhiên.
Từ năm 111TCN đến năm 938 khi
Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, dân Việt sống dưới ách đô
hộ của người Trung Hoa. Trong giai đoạn này người Việt chịu ảnh hưởng của Tam
giáo Đông Phương và văn hoá Trung Hoa như trọng nam; có nhiều đức tính như nhẫn
nhục, chịu đựng, cẩn trọng nhưng cũng có thêm nhiều tật xấu như nghi ngờ, giả
dối, hời hợt bên ngoài, nói xấu sau lưng người khác, làm việc hình thức, hay ăn
cắp của công như hậu quả của thái độ tự bảo vệ và chống đối quân thù.
Từ năm 938 đến năm 1945, dân
Việt sống tự chủ, độc lập với 10 triều vua lớn nhỏ, trong đó có 4 triều vua lớn
là Lý, Trần, Lê, Nguyễn trong nền quân chủ chuyên chế độc tài. Thời kỳ này
người Việt nhấn mạnh đến tính cách dòng tộc, làng xã, địa phương, chế độ đa
thê, bất bình đẳng nam nữ, “một người làm quan cả họ được nhờ”, “phép vua thua
lệ làng”. Với sự có mặt của Công giáo vào thế kỷ 17, người Việt biết thêm về
dân chủ, bình đẳng nam nữ, hôn nhân một vợ một chồng, chữ Việt và khoa học sơ
khởi.
Từ năm 1945 đến năm 1975, dân
tộc lại rơi vào cuộc chiến tương tàn do việc đối đầu về ý thức hệ giữa tư bản
và cộng sản, bên nào cũng muốn chứng minh chính nghĩa và sự thật của mình bằng
những thủ đoạn chính trị, dối trá làm băng hoại tâm hồn người Việt nên người
Việt càng khó tin tưởng nhau. Tâm lý yêu cuồng, sống vội vì lo sợ cái chết
trong thời chiến, những cuộc đấu tố ở Miền Bắc, những thời đói kém tột cùng đã
phá huỷ nhiều tập quán tốt của người dân Việt (tra cứu thí nghiệm của Pavlov về
phản xạ có điều kiện, giai đoạn 2: các con chó đã tập được thói quen tiết dịch
vị khi nghe tiếng chuông, nhưng sau một thời gian bị bỏ đói lâu ngày trong trận
lụt, người ta thấy chúng không còn thói quen đó. Áp dụng cho người, các nhà tâm
lý thấy rằng: khi con người bị nỗi kinh hãi lớn lao, bị đói khát cùng cực, thân
thể cạn kiệt sức lực, tâm lý hoàn toàn xáo trộn, nhiều tập quán bị mất mát, có
thể dẫn đến tình trạng “tẩy não”).
Từ năm 1975 đến năm nay (2012),
người Việt tiến bộ rất nhiều về tri thức, về khoa học kỹ thuật, đất nước thống
nhất, độc lập, nền văn hoá hướng theo chủ nghĩa cá nhân, hưởng thụ vật chất, vô
thần, duy vật.
Nếu phân tích cấu trúc văn hoá
xã hội của người Việt để xây dựng nền VMTY, chúng ta thấy có nhiều điểm tiêu
cực cần phải sửa đổi và nhiều điểm tích cực có thể phát huy. Chúng ta có thể
tìm hiểu thêm về cấu trúc văn hoá xã hội
của người Việt Nam
trong phần phụ lục dưới đây.
Dù chúng ta không thể thay đổi
lịch sử nhưng có thể cải tạo cấu trúc này nơi con người bằng việc giáo dục tự
thân.
Phân tích yếu tố II: Giáo dục tự thân
Không phải người Việt nào đón
nhận di sản của tổ tiên để lại cũng có những đức tính và tật xấu như nhau, vì
yếu tố giáo dục tự thân sẽ làm thay đổi các tầng cấu trúc tâm lý giống như
người biết gạn lọc sỏi đá cằn cỗi ở từng lớp đất, bón phân, tưới nước làm cho
cây trồng đơm bông kết trái.
Chúng ta đã biết cấu trúc tâm
lý con người gồm 3 lớp mà các nhà tâm lý gọi là ý thức, tiềm thức, vô thức. Để
xây dựng nền VMTY, chúng ta tác động lên tầng ý thức bằng cách làm cho con
người nhận thức được những giá trị sống tích cực để họ có những thái độ sống
lành mạnh trong các mối tương quan của mình, từ đó họ có những hành động tốt
đẹp với những kỹ năng sống. Những hành động lặp đi lặp lại sẽ tạo thành thói
quen (tra cứu thí nghiệm phản xạ có điều kiện của Pavlov với những con chó ở
giai đoạn I), từ thói quen tạo thành cá tính, thành bản sắc riêng của cá nhân.
Bản sắc này được truyền lại cho con cháu để trở thành di sản của tổ tiên. Nhiều
cá nhân có cùng nhận thức, thái độ, hành động sẽ tạo nên bản sắc của cộng đồng,
của dân tộc sau một vài thế hệ.
Việc hình thành nên bản sắc
chứng tỏ tầm quan trọng của nền giáo dục trong đời sống cá nhân cũng như cộng
đồng. Nền VMTY đặt nền tảng trên việc giáo dục, đào tạo những giá trị sống và
kỹ năng sống khởi đầu từ từng tín hữu và cộng đồng Kitô hữu biết sống những giá
trị của Tin Mừng và theo lệnh truyền yêu thương của Đức Giêsu Kitô.
Trước đây người Kitô hữu VN đã
sống những giá trị dân chủ, bình đẳng, hôn nhân một vợ một chồng và sau khi cả
dân tộc VN đón nhận các giá trị đó, họ chưa giới thiệu thêm những giá trị mới
còn nhiều trong Tin Mừng, trong Tám Mối Phúc Thật, trong Truyền Thống Kitô giáo
như bác ái, tôn trọng, cộng tác, hoà bình, huynh đệ, liêm chính, khoan dung,
tiết độ, thanh bần, hiền hoà, nhân ái, chân thật…
Phân tích yếu tố III: Môi trường xã hội
Trong việc xây dựng nền VMTY
chúng ta không thể không nhắc đến môi trường xã hội VN hiện nay mà mỗi người
đang sinh sống để phân tích những yếu tố phù hợp, hoặc bất lợi, cho việc xây
dựng này trong các lĩnh vực tôn giáo, chính trị, văn hoá, kinh tế… Thí dụ trong
lĩnh vực văn hoá, ảnh hưởng của sách báo, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình,
nhất là internet đang đóng góp hay ngăn cản việc xây dựng nền VMTY? Dù người
Công giáo VN hiện nay chỉ chiếm tỷ lệ 7% dân số, nhưng với quyết tâm xây dựng
cho dân tộc và với ơn Chúa, chúng ta có thể thành công sớm hơn dự tính. Nếu
chúng ta không tích cực xây dựng để thay đổi môi trường xã hội đầy ô nhiễm như
hiện nay, có thể dân tộc chúng ta sẽ suy đồi, băng hoại và biến mất như một số
dân tộc trên thế giới và ngay trên đất nước này (Chiêm Thành, Thuỷ Chân Lạp…).
Bước thứ
ba: Khám phá ra con người mình và xây dựng nền VMTY nơi mình bằng sự phản tỉnh
Việc xây
dựng nền VMTY cuối cùng lại bắt đầu từ từng người tín hữu chúng ta sau khi đã
hiểu rõ nền nhân bản toàn diện và liên đới của GHXHCG, khám phá cấu trúc văn
hoá xã hội của người VN và các yếu tố hình thành nên cấu trúc con người mình
nhờ các khoa học kỹ thuật.
Để khám phá được con người mình
thuộc cá tính nào, có những khả năng nào, đức tính và khuyết điểm nào trong
việc phát triển toàn diện và liên đới, chúng ta có khá nhiều phương tiện trợ
giúp như trắc nghiệm khám phá cá tính của Gaston Berger, các trắc nghiệm của
khoa tâm lý về các khả năng, tật xấu. Chúng ta cũng không thể không nhắc tới
những phương pháp thanh tẩy trí nhớ bằng tư duy tích cực, xét mình tự kiểm,
luyện tập các nhân đức của khoa tu đức Công giáo…(xem phần phụ lục mục những công cụ hỗ trợ việc xây dựng nền văn
minh tình yêu).
Rồi một khi nối kết được với
Thiên Chúa Ba Ngôi, được tràn đầy Thánh Thần, mỗi người chúng ta trở thành hình
ảnh sống động của Đức Giêsu Kitô cho con người và thế giới hôm nay. Như thế là
ta đã xây dựng thành công nền VMTY nơi con người mình dù chưa hoàn thành cho
cộng đồng xã hội vì “khả năng mở ra cho siêu việt, cho Đấng Vô biên, tức là
Thiên Chúa, là đặc tính của con người” (x.TLHTXHCG, số 130).
Lời Kết
Trên đây là một vài nguyên tắc
và gợi ý khi nói về việc xây dựng nền văn minh tình yêu cho đối tượng là những
con người Việt Nam
dưới ánh sáng của GHXHCG. Việc xây dựng nền VMTY có thể nói là vấn đề thuộc bản
chất và đặc trưng của GHCG mà mỗi tín hữu Công giáo Việt Nam đang được mời gọi
xây dựng và tái tạo trong cuộc sống của mình, khi bước đi trên con đường tình
yêu như Chúa Giêsu đã đi. “Chỉ khi nào nền VMTY ngự trị thì nhân loại mới có
thể hưởng một nền hoà bình chân chính và vững bền” (Thánh Gioan Chrysostom;
x. TLHTXHCG, số 582).
--o0o--
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét