Toàn văn Thông điệp Hiền Mẫu và Tôn Sư
THÔNG ĐIỆP
HIỀN MẪU VÀ TÔN SƯ
MATER ET MAGISTRA
Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII |
1. Giáo hội phổ thông khắp thiên hạ, là Hiền mẫu và tôn sư của các dân tộc. Chúa Giêsu đã lập ra, để toàn thể nhân loại trải qua các thời đại lịch sử, mà tìm sẵn trong lòng và trong tình yêu của Người, một nguồn sống dồi dào cao siêu và một bảo đảm cho họ chắc được cứu rỗi phần hồn.
Đấng thành lập Giáo hội làm cột trụ và nền tảng vững chắc của chân lý cũng đã uỷ cho Giáo hội hai sứ vụ: trước là sinh sản, sau là giáo dục và hướng dẫn đoàn con, với một lòng mẫu tử ân cần, bảo vệ mạng sống từng người và mạng sống các dân tộc. Đời nào cũng như đời nào Giáo hội đã tận tâm tôn trọng và bảo vệ phẩm giá đặc biệt của con người.
2. Thực ra, đạo Chúa Kitô phối hợp trời đất với nhau. Vừa đón nhận loài người trong thực tế cụ thể, tinh thần và vật chất, trí tuệ và ý chí, vừa tha thiết kêu mời họ hướng tâm lên, đi từ những hoàn cảnh phù vân và hằng biến đổi của thế sự, mà vươn mình lên tuyệt đỉnh của đời sống vĩnh cửu, là chốn họ mới tận hưởng hạnh phúc và hòa bình trường sinh.
3. Đành rằng sứ vụ trực tiếp của Giáo hội là thánh hóa các linh hồn và thông cho họ những ơn phúc siêu nhiên cần thiết. Nhưng gián tiếp Giáo hội cũng ân cần với đời sống thường ngày của nhân loại. Đối với từng người, Giáo hội hằng lưu tâm đến nhu cầu và địa vị sinh hoạt của họ; Còn đối với các dân tộc, Giáo hội lo cho chúng luôn luôn phồn thịnh và hưởng nền văn minh trong đủ mọi khía cạnh và tùy theo mọi thời đại?
4. Làm như vậy, Giáo hội chỉ thể hiện sứ mệnh cao cả của Chúa Kitô, là vị sáng lập. Xưa kia Chúa Kitô lo nhất, là cứu chuộc nhân loại về phần siêu nhiên vĩnh cửu. Nhắm mục đích ấy Chúa nói: “Ta là đường, sự thật và là sự sống. Ta là ánh sáng thế gian”. Chỗ khác Chúa động lòng thương đám dân đói lả, Chúa than thở rằng: “Ta động lòng thương đám đông này”. Đó là một bằng chứng rõ ràng, Chúa cũng lo đến những đòi hỏi thế tục của các dân tộc. Những lời nói và những gương hạnh của Đấng Cứu Thế xưa luôn luôn minh chứng rằng: Tâm hồn Người nặng chĩu những mối lo ấy.
5. Tỉ dụ như Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; cho dân chúng đỡ đói. Nhưng qua phép lạ ấy, Người lấy bánh nuôi xác làm tượng trưng bánh hằng sống là thực phẩm của các linh hồn Người sẽ phân phát cho toàn thể nhân loại, trước khi chịu tử nạn.
6. Bởi thế Giáo hội noi gương và tuân lệnh Chúa Kitô, có người lấy làm ngạc nhiên là sao suốt trong hai nghìn năm lịch sử từ ngày lập chức phó tế xưa cho đến ngày nay, Giáo hội nêu cao đuốc bác ái không ngừng, chẳng những bằng huấn luyện mà lại bằng cả những gương hạnh không sao kể xiết được. Nhờ lòng bác ái Giáo hội mới dung hòa được luật thương yêu nhau với những thực hành bác ái của Người. Nhờ lòng bác ái, Giáo hội thể hiện một cách tuyệt diệu luật thi ân hai điều vốn là toát yếu học thuyết và hành động xã hội của Giáo hội.
Vì thế mà chúng ta cũng phải tin nhận bức thông điệp RN do Đức Tiên Giáo hoàng Lêo XIII đáng ghi nhớ, đã công bố 70 năm về trước, là một bằng chứng vĩ đại về học thuyết và mọi hành động xã hội của Giáo hội trải qua trong lịch sử.
7. Đức Lêô XIII đã công bố bức thông điệp ấy để nêu lên những nguyên tắc căn bản, ai cũng phải áp dụng để giải quyết vấn đề lao động cho thích hợp với đạo thánh Chúa Kitô. Chẳng mấy khi nào những huấn lệnh của một vị giáo hoàng làm rung động cả thế giới bằng khi ấy. Vì những vấn đề được giải quyết thì sâu rộng, và cũng vì cách giải quyết đã có sức nhiệm phát động quần chúng lạ lùng.
8. Thực ra, không bao giờ thế giới được nghe những lời chỉ dẫn và những huấn điều quan trọng đến thế, quan trọng đến nỗi không thể quên đi được. Bức thông điệp ấy đã mở rộng cho Giáo hội một con đường hoạt động mới. Chúa chiên cao thượng nhất, thông cảm chịu lấy những sự đau khổ, những than vãn và những nguyện vọng của các dân đen bị áp bức, rồi đứng dậy bênh hộ quyền bất khả xâm phạm của họ.
9. Ngày nay, dầu một quãng thời gian lâu dài đã trôi qua, bức thông điệp ấy vẫn có giá trị hợp thời và thực thể trong các văn kiện của những giáo hoàng liên tiếp kế vị Đức Lêô XIII. Vì học thuyết xã hội của những giáo hoàng ấy xuất hiện từ ở bức thông điệp của Đức Lêô XIII, hoặc là nguồn tiên hứng, hoặc là nguồn ý kiến các ngài diễn giảng dài hơn hoặc là nguồn tràn lời an ủi và nâng đỡ các kitô hữu hành động. Hợp thời và thực thể hơn nữa, ngay trong những tổ chức mới của các dân tộc là một tang chứng rực rỡ, những nguyên tắc đã được khảo cứu tường tận, những huấn lệnh lịch sử, những lời khuyên nhủ thiết tha đã được biên ghi trong bức thông điệp RN ngày nay vẫn có giá trị như xưa, mà lại dẫn khởi những huấn lệnh mới và thích thời giúp người ta, hoặc tìm hiểu vấn đề xã hội sâu hơn và thích hợp với đời ta bây giờ hơn, hoặc quyết tâm đảm nhiệm phận sự riêng.
PHẦN THỨ NHẤT
Những huấn lệnh của bức thông điệp RN và những tiến triển thích đáng của những huấn thị ấy qua các văn kiện của Đức Giáo Hoàng Piô XI và Piô XII.
10. Đời Đức Lêô XIII lên tiếng, đã đầy những biến cố sâu thẳm, những mâu thuẫn gay go, những khởi loạn hung ác trong đủ mọi phạm vi kinh tế, chính trị. Nhưng đời ấy càng đen tối, học thuyết của Người công bố càng sáng rực.
11. Ai cũng thừa biết hồi đó, quan niệm phổ thông nhất về cả hai phương diện học thuyết và thực hành, vừa đề cao kinh tế có những tiềm lực tự nhiên hướng dẫn, vừa chối không chịu đặt kinh tế dưới quyền luân lý điều khiển. Thành ra ai tham gia vào những hành động kinh tế, chỉ cốt theo đuổi một mục đích là gây tư lợi. Những nguyên do tự nhiên hợp tắc kích thích mọi hành động kinh tế, chỉ còn tuân cứ một điều luật tối cao, là tự do cạnh tranh vô chừng hạn. Lời lãi của tư bản, giá hàng hóa và công vụ, hoa lợi và lương bổng đều được chỉ định tùy theo luật thị trường, vô thức độc quyền. Chính quyền không phương cách nào can thiệp vào lãnh vực kinh tế này. Đồng thời, các nghiệp đoàn tùy theo dân nọ nước kia, hoặc bị cấm đoán, hoặc bị mua chuộc, hoặc chỉ được nhận là những tổ chức tư nhân.
12. Dưới một định chế như vậy, lý kẻ mạnh bao giờ cũng được nhận là phải, không những trong lý thuyết mà lại trong thực tế nữa. Nó chỉ huy mọi mối liên hệ giữa loài người. Kết quả, giới kinh tế trên dưới hoàn toàn hỗn độn.
13. Đang lúc thiểu số dồn lại trong tay những tài sản mênh mông, thì phần đa số công nhân nheo nhóc trong cảnh khổ cực ngày càng khó chịu. Lương bổng hạ, đến nỗi công nhân không những không đủ nuôi sống mà lại còn không tránh được nạn đói rách. Những dân đen vô sản phải làm việc trong các hoàn cảnh nguy hại đến sức khỏe, luân lý và đức tin của họ. Hoàn cảnh lao động nữ giới và các thanh niên, thì càng bất nhân hơn nữa. Quái tượng của một đời sống thất nghiệp, đêm ngày hằng xuất hiện trước mặt công nhân. Dần dần gia đình lâm nguy sợ phải ly tán !
14. Hậu quả tất nhiên là giới lao động bất mãn lòng đầy căm hờn. Công nhân cự tuyệt xã tắc tiền định. Những tà thuyết xã hội quá khích tha hồ lưu chuyển trong giới lao động. Họ không thấy phương dược tà thuyết ấy hại hơn cả cơn bệnh cần phải sửa chữa.
I. CANH TÂN XÃ HỘI: NGUYÊN TẮC CĂN BẢN.
15. Trong những trường hợp ấy, bức thông điệp của Đức Lêô XIII là một thông điệp xã hội căn cứ vào những đòi hỏi chính đáng của nhân loại vừa nhiễm đầy những nguyên tắc và tinh thần phúc âm. Không kể những phe quá khích ai cũng biết họ sẽ kịch liệt chống cự, cả thế giới đều nhiệt liệt hoan nghênh và ngạc nhiên cảm phục bức thông điệp ấy. Thực ra, lần ấy không phải là lần đầu mà thế sự được tòa thánh lưu tâm đến, và giới lao động được Đức Giáo Hoàng biện hộ. Đức Lêô XIII thật không thiếu gì những văn kiện nêu lên vấn đề ấy và mở đường tìm giải pháp. Nhưng lần này mới là lần đầu tiên, mà tòa thánh kết cấu tổng hợp trong một bức thông điệp nguyên tắc và chương trình hành động xã hội của Giáo hội. Ngày nay ta phải nhận thực rằng: Bức thông điệp RN là học thuyết xã hội kinh tế của Giáo hội nói được là toàn thư.
16. Chỉ một người thật dũng cảm mới cho xuất hiện bức thông điệp ấy. Đang lúc bao người cảnh cáo Giáo hội chỉ biết khuyên nhủ kẻ bần cùng chịu nhịn phận bạc của mình, và yêu cầu kẻ giàu sang hãy quảng đại giúp đỡ họ, Đức Lêô XIII chỗi dậy không chút ngần ngại tuyên bố và biện hộ quyền lợi bất khả xâm phạm của giới lao động. Đã thầm quyết trình bày những nguyên tắc bất di bất dịch của học thuyết xã hội công giáo, Người long trọng tuyên bố trước rằng: Ta bàn đến vấn đề này với một lòng tin vững chắc, vì giải quyết vấn đề ấy là việc chính thức thuộc về linh quyền của ta. Vấn đề xã hội hiện nay sôi nổi cực độ. Không tìm giải pháp ở tôn giáo và Giáo hội thì không ai giải quyết được một cách hiệu nghiệm.
17. Anh em đáng kính, chắc anh em thừa biết những nguyên tắc mà Đức Tiên Giáo hoàng đã long trọng và minh bạch đề cao giải bày. Nhờ những nguyên tắc ấy, xã hội nhân loại mới chắc được tái tạo trong đủ mọi phạm vi kinh tế và xã hội.
Nguyên tắc thứ nhất
18. Trước hết, cần lao biểu dương nhân cách của con người, nên nếu coi nó chỉ là một món hàng, là tội. Đối với phần đa số nhân loại, cần lao là sinh kế độc nhất. Bởi thế chủ nhân không được thanh toán lương bổng công nhân như thể công việc của họ là đồ mua bán ở thị trường. Phải định lương trả cho thợ theo công bằng và bác ái. Không thì dầu giao kèo cần lao được đôi bên ưng nhận và ký kết, công bằng cũng bị tổn thương nặng nề.
Nguyên tắc thứ hai
19. Quyền tư hữu, kể luôn khí cụ máy móc, là quyền tự nhiên của từng công dân, chính quyền không bãi bỏ được. Nhưng vì quyền tư hữu là một tác dụng có tư cách xã hội, tư nhân sử dụng không những để gây lợi ích riêng mà lại để góp phần vào công ích nữa.
20. Vì mục đích chính quyền là thể hiện công ích, thì chính quyền không thể nào bỏ phớt, không dính dáng vào lãnh vực kinh tế. Trái lại chính quyền phải thúc đẩy dân chúng tăng gia sản xuất, cho mọi công dân đủ sống về vật chất: “Vì có thực mới vực được đạo”. Chính quyền lại phải bênh vực quyền lợi của mọi công dân, nhất là quyền lợi kẻ yếu đuối như công nhân, phụ nữ và thiếu niên. Chính quyền không thể nào tránh phận sự quyết liệt cải hóa thân phận công nhân.
21. Chính quyền lại phải kiểm soát những giao kèo cần lao, để chắc nó được ký kết theo công bằng và minh chính. Chính quyền cũng phải kiểm soát các công trường, để phẩm cách hồn xác của công nhân khỏi bị tổn thương. Về phương diện ấy, bức thông điệp của Đức Lêô XIII đã nêu cao những nguyên tắc căn bản của một xã tắc công bằng và minh chính, và ảnh hưởng sâu rộng đến luật pháp của các chính phủ đương kim. Ngày nay quốc gia nào cũng tùy tâm lý riêng hưởng lợi. Trong bức thông điệp Tứ Thập Niên (QA) Đức Piô XI nhận thực điều đó rằng: “Những nguyên tắc của Đức Lêô XIII đã phát huy mà lại phát triển nữa, một ngành mới trong dân luật, tức là luật lao động.”
22. Bức thông điệp RN cũng thừa nhận cho công nhân quyền tự nhiên lập công đoàn, hoặc dành riêng cho công nhân, hoặc chung cho công nhân và chủ nhân, và tổ chức những công đoàn ấy tùy theo những đòi hỏi của từng công nghệ. Bức thông điệp ấy cũng quả quyết công nhân hành động tự do, theo ý nguyện riêng, và theo thể cách ích lợi nhất của họ. Không ai ngăn cấm, không ai phản đối được ý nguyện chính đáng của họ.
23. Sau hết công nhân và chủ nhân phải đối đãi với nhau theo những nguyên tắc của tính hợp quần của nhân loại và tình nghĩa huynh đệ của đạo Chúa Kitô. Hai chủ nghĩa tha hồ cạnh tranh của phe tự do, và giai cấp tương tranh của Các Mác, đều trái ngược học thuyết công giáo và tính tự nhiên của nhân loại.
24. Anh em đáng kính, đó là những nguyên tắc làm căn bản cho một xã tắc xã hội kinh tế chính đáng, vững bền.
25. Bởi thế không lạ gì khi thấy bao người công giáo tài trí lỗi lạc tuân cứ những chỉ thị của Đức Lêô XIII, và thành thực đua nhau tìm trăm phương ngàn cách áp dụng vào thực tế học thuyết xã hội công giáo. Ngoài ra ở khắp bốn phương cũng đã không thiếu gì những người thiện chí cảm hứng những xu hướng tự nhiên của nhân loại, mà rảo bước cùng nhau theo con đường ấy.
26. Không phải là vô lý mà bức thông điệp của Đức Lêô XIII được gọi và hiện giờ còn mang tên là Đại Hiến Chương của mọi cố gắng tái tạo kinh tế và xã hội hiện tại.
ĐỨC PIÔ XI VÀ BỨC THÔNG ĐIỆP QA
27. Bức thông điệp RN ra đời được 40 năm, thì Đức Tiên Giáo hoàng Piô XI đã cho xuất hiện một bức thông điệp khác với nhan đề là QA cũng là một văn kiện cực kỳ quan trọng.
28. Văn kiện mới này lại chứng minh quyền lợi và phận sự của Giáo hội phải góp công tìm giải quyết những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng làm xúc động toàn thể nhân loại hiện tại. Đức Tiên Giáo hoàng lại xác định lần nữa những nguyên tắc và những huấn lệnh của bức thông điệp RN, là những nguyên tắc và những huấn lệnh còn thích thời. Người cũng nhân dịp ấy để phân minh một vài quan điểm học thuyết xã hội công giáo, còn đang khiến cả giáo dân bất đồng ý với nhau, rồi định thể cách áp dụng những nguyên tắc và huấn lệnh nói trên vào tình trạng xã hội mới.
29. Thực ra thời kỳ đó đã có bao nhiêu kitô hữu do dự không biết nghĩ gì về quyền tư hữu, quy chế lương bổng, và chế độ xã hội dưới hình thức điều độ mới.
30. Về quyền tư hữu, Đức Tiên Giáo hoàng vẫn quả quyết là quyền tự nhiên của từng cá nhân, nhưng Người nhấn mạnh và định rõ tư cách cùng phận sự xã hội của mọi tư sản.
31. Về quy chế lương bổng Người phi bác luận thuyết thường công bố là một quy chế bất công. Nhưng Người cũng kết án những thể cách thực hành quy chế đó nhiều khi là vô nhân đạo và quá bất công. Người lại xác định luật lệ và những điều kiện phải tuân cứ cho quy chế ấy hợp với sự công bằng và minh chính.
32. Theo lời Đức Tiên Giáo hoàng chỉ dậy, trong thời kỳ này thì rất nên mượn của giao kèo xã hội một vài điểm chính để bổ khuyết cho giao kèo cần lao xưa kia. Vì nhờ vậy lao động và công nhân được tham gia vào tổ chức xí nghiệp, về phương diện chấp hành và chia hoa lợi nữa.
33. Còn một điều rất quan trọng phải lưu tâm đến trong cả phạm vi lý thuyết và thực hành, là không định giá công lao và trả công thợ cho công bằng, nếu kẻ ấy coi thường tư cách cá nhân và xã hội của cần lao. Nên khi xác định lương bổng phải chăng của công nhân, chủ nhân phải vừa lưu tâm đến nhu cầu riêng và nhu cầu gia đình của công nhân, vừa phải thanh toán tình trạng xí nghiệp đã mướn họ và những đòi hỏi của nền kinh tế chung.
34. Đức Tiên Giáo hoàng cũng tuyên bố rằng: Cộng sản tự tận gốc tương phản với công giáo chủ nghĩa. Người công giáo không nỡ nào xác nhận chủ nghĩa xã hội, dầu cả dưới những hình thức điều độ mới. Lý do là vì theo chủ nghĩa xã hội bất cứ dưới hình thức nào, đời sống con người chỉ kết thúc trong hiện tại, mục đích là sống an nhàn ở dưới thế. Hơn nữa, chủ nghĩa xã hội đặt cứu cánh xã hội ở chỗ tăng gia sản xuất, là hạn chế quyền tự do của con người. Sau hết chủ nghĩa xã hội thiếu một quan niệm xác đáng về phận vụ chính quyền trong xã hội.
35. Dầu sao Đức Piô XI cũng nhận thực trong vòng 40 năm, kể từ ngày bức thông điệp RN xuất hiện, thời thế đã biến chuyển rất nhiều. Chế độ tự do cạnh tranh theo chính sách biện luận riêng của nó, đã đi đến chỗ tự tiêu. Các tài sản rộng lớn đều dồn lại trong tay thiểu số người triệu phú. Chuyên quyền kinh tế kèm theo đó cũng nằm trong tay kẻ ấy, sự thường họ không phải là chủ sản đâu, mà chỉ là người thu thác và làm quản lý những tư bản lớn, họ được tự do tiêu dụng và quản nhiệm.
36. Đức Tiên Giáo hoàng cũng minh xác rằng: Kế tiếp chính sách tự do thị trường trước kia, ngày nay ta thấy xuất hiện một chế độ kinh tế độc tài. Trước thì người ta chỉ ham tư lợi, ngày nay người ta lộng hành tham quyền. Đời sống kinh tế hóa nên một đời sống gay go, hung ác và tàn nhẫn kinh khủng. Kết quả chính quyền lệ thuộc mối lợi giàu sang. Tiền tài đứng lên làm bá chủ thế giới.
37. Xã hội đã sai chính đạo. Đức Giáo Hoàng định rõ những nguyên tắc cần thiết để dứt khoát những sự tàn nhẫn kia. Kinh tế phải tái nhập vào quy tắc luân lý. Lợi ích riêng của từng cá nhân và các đoàn thể phải quy phục những đòi hỏi của công ích. Theo lời Đức Giáo Hoàng chỉ dạy, để hoàn tất công việc ấy, phải tái lập trong xã hội nhân loại những tổ chức kinh tế và nghiệp đoàn tư nhân, không phải do chính phủ đề cử, bèn là do công dân tự lập. nhờ vậy chính quyền mới trở về với sứ vụ riêng của họ, là gây dựng và bảo vệ công ích. Còn trên bình diện quốc tế, các quốc gia phải hợp tác với nhau để thể hiện một nền kinh tế chung cho cả nhân loại.
38. Những đề tài đặc sắc trong bức thông điệp của Đức Piô XI thì gồm tắt trong hai điểm chính: điểm thứ nhất là chối hẳn không chịu nhận làm luật căn bản tuyệt đối của nền kinh tế, hoặc tư lợi riêng của từng cá nhân hay từng đoàn thể, hoặc luật tự do cạnh tranh vô hạn, hoặc độc quyền kẻ giầu sang, hoặc lãnh vực quốc gia, hoặc những tham vọng tương đương khác.
39. Trái lại tất cả mọi hành động kinh tế phải quy phục luật công bằng và bác ái là căn bản tuyệt đối của xã hội.
40. Điểm thứ hai: Đức Piô XI tha thiết yêu cầu lập ra những cơ cấu công hay tư, quốc gia hay quốc tế, đặt dưới sự hướng dẫn của công bằng xã hội, để gây dựng một thứ tự pháp lý cần cho tổ chức kinh tế dung hòa được tư lợi với công ích.
THƠ TÍN TRUYỀN THANH DỊP LỄ CHÚA HIỆN XUỐNG
41. Đức Giáo Hoàng Piô XII mà ta vinh hạnh kế vị, cũng đã góp một phần không ít trong việc xác định quyền lợi và nghĩa vụ xã hội. Ngày 1.6.1941, dịp lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, Ngài truyền qua làn sóng vô tuyến điện một thơ tín, mục đích là nhắc lại cho thế giới công giáo lưu tâm đến một ngày kỷ niệm đáng viết bằng chữ vàng trong lịch sử Giáo hội, tức là kỷ niệm ngũ thập niên (15.5.1891) bức thông điệp RN của Đức Lêô XIII. Đức Giáo Hoàng nhân dịp ấy mà cảm tạ Chúa toàn năng đã linh ứng cho người đại diện Chúa ở dưới thế, và tận tâm ca ngợi Đức Chúa Thánh Thần đã dùng bức thông điệp ấy mà thổi một loạt hơi tái tạo vào thế giới, là một bức thư càng ngày càng làm nổi lên cả nhân loại.
42. Trong thông điệp truyền thanh này, Đức Giáo Hoàng đòi lại quyền bất khả xâm phạm cho Giáo hội xét đoán bất cứ tổ chức xã hội nào, căn bản có phù hợp với trật tự bất di bất dịch Thiên Chúa dựng nên, cứu chuộc nhân loại, và tiền định cho muôn vật tiến triển theo luật tự nhiên và đạo mạc khải. Người cũng lại xác nhận rằng: Những huấn dụ của thông điệp RN vẫn rất hợp thời và còn hiệu nghiệm vô cùng. Người cũng nhân dịp ấy để nhắc lại những nguyên tắc luân lý áp dụng được vào ba điểm chính của một đời sống xã hội, kinh tế chính đáng, tức là quyền sử dụng vật chất, phận vụ cần lao, cảnh gia đình là ba điểm căn bản tương trợ nhau.
43. Về quyền sử dụng của cải, Đức Piô XII tuyên bố: đó là quyền ai cũng có và phải đòi lại để nuôi sống, vì là quyền trổi vượt bất cứ chuyên quyền kinh tế nào, kể luôn quyền tư hữu nữa. Quả thực, quyền tư hữu là quyền tự nhiên. Nhưng dầu sao Tạo hóa cấm quyền ấy không thể nào làm khó dễ cho toàn thể nhân loại đòi hỏi và sử dụng muôn vật cần thiết theo luật công bằng và bác ái là căn bản nền kinh tế Chúa an bài.
44. Về phận vụ cần lao, Đức Piô XII cũng căn cứ vào những huấn dụ của bức thông điệp RN mà quả quyết rằng: Cần lao vừa là một phận sự, vừa là một lợi tức của mỗi người. Thành ra chính những người tham gia vào cần lao, có quyền ưu tiên để phân định những mối giao tế trong việc làm. Chỉ có khi nào họ không muốn hay không thể nào giải quyết được những vấn đề ấy, thì khi đó chính quyền mới can thiệp được vào việc phân phối việc làm tùy theo hình thức và hạn định của công ích chính đáng.
45. Về cảnh gia đình Đức Giáo Hoàng tuyên bố rằng: Quyền tư hữu đối với của cải bảo đảm và mở mang đắc lực đời sống gia đình. Nó ban cho các gia trưởng quyền tự do chính đáng và cần thiết để thể hiện những nghĩa vụ đấng Tạo Hóa giao uỷ cho họ, về đủ mọi phương diện vật chất, tinh thần, tôn giáo và gia đình. Nhờ đó gia đình nào cũng có quyền đòi xuất dương di trú. Thành ra Đức Giáo Hoàng yêu cầu các quốc gia hoặc cho phép xuất ngoại hoặc đón nhận kẻ xin cư ngụ, phải thành thực loại bỏ tất cả những gì làm cho họ khó nảy ra hay làm phát ra một tinh thần tín nhiệm nhau thật lòng. Đôi bên thành tín với nhau, thì bên nào bên nấy cũng hưởng lợi và phát triển mức văn hóa của từng dân tộc.
Những biến chuyển mới lạ.
46. Chính Đức Piô XII đã nhận thực tình trạng xã hội từ đời Đức Lêô XIII đã biến chuyển rất nhiều. Nhưng trong 20 năm vừa qua, ta nói được tình trạng ấy đã biến đổi tận gốc, hoặc trong nội bộ của từng quốc gia, hoặc trong những giao tế giữa các quốc gia.
47. Trong phạm vi khoa học, kỹ thuật và kinh tế, sự biến chuyển lạ nhất đã do nguyên tử lực phát minh mà càng ngày càng được áp dụng vào khía cạnh chiến tranh trước, sau vào những cố gắng dựng lại hòa bình thế giới. Nhưng sự biến chuyển đó lại bởi những nguyên nhân khác nữa:
Hóa học đem đến cho thế giới bao phương tiện chế tạo ra sản phẩm tổng hợp, nói được là vô chừng hạn.
Sự phát triển và hưởng dụng máy móc tự động trong khía cạnh kinh tế và công vụ.
Nông nghiệp được canh tân một cách lạ lùng mau chóng.
Sự gần xa giữa các nước hầu như không còn đáng kể chi nữa, vì nhờ máy truyền thanh và truyền hình.
Sự vận chuyển mỗi ngày một mau chóng hơn...
Những thực hiện khởi đầu cho nhân loại không gian liên hành tinh vân vân...
48. Trong phạm vi xã hội cũng thế:
Sự bảo hiểm xã hội đã tiến triển, đến nỗi trong những nước kinh tế mở mang nhiều đã thấy xuất hiện những tổ chức bảo hiểm đủ mọi sự rủi ro nguy hiểm.
Nhờ các nghiệp đoàn đào tạo và làm phát triển mãi, nên ý thức và trách nhiệm kinh tế xã hội ngày càng sáng suốt hiệu lực.
Nền giáo dục căn bản đã mỗi ngày một lên cao trong đời sống đa số công dân.
Chỗ nào cũng thấy nếp sống sung túc hơn.
Những cấp bậc phẩm trật công nghệ liên lạc với nhau mau chóng hơn. Các giai cấp xã hội trước xa nhau một vực một trời ngày nay thì gần gũi hơn.
Dầu những người chỉ có nền văn hóa trung bình, họ cũng bắt đầu lưu tâm đến vấn đề thời sự quốc tế.
Nhưng sự kinh tế xã hội ngày càng tiến triển ở nước nọ nước kia, thì càng làm nổi bật lên những khía cạnh canh nông, kỹ nghệ và công vụ còn quá chênh lệch với nhau. Còn những địa phương cùng một quốc gia quá xa nhau, và trong phạm vi quốc tế, thì bao dân nước nguồn lợi nhiều ít khác nhau một vực một trời.
49. Trong phạm vi chính trị, cũng thấy bao sự lạ xảy ra.
Trong bao dân nước, công dân bất phân chủng tộc cũng được tham gia vào vận mệnh nước nhà.
Chính quyền mỗi ngày một can thiệp nhiều trong giới kinh tế xã hội. Trong phạm vi quốc tế chế độ thuộc địa cáo chung. Các dân Á Phi lần lượt thâu hồi nền độc lập chính trị.
Bao hội đoàn và tổ chức quốc tế được lập ra và phát triển, vượt qua biên giới từng quốc gia mà tìm gây lợi ích chung trong đủ mọi phạm vi kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học, hay phụ trách những mối giao tế giữa các quốc gia.
Mục đích bức thông điệp này.
50. Bởi thế, ta thú nhận phận vụ của ta là nêu cao đuốc sáng các Đức Tiên Giáo Hoàng đã nhóm lên, và khuyên nhủ mọi người hãy giải quyết những vấn đề xã hội mới trong ánh sáng và sự phấn khởi của những bức thông điệp trước, nhưng bằng những phương pháp thích hợp với đời ta bây giờ.
Nhân dịp này ta cũng có ý kỷ niệm bức thông điệp của Đức Lêô XIII. Nhưng nhận thực những sự biến chuyển mới lạ kể trên. Ta cũng muốn nhắc lại và xác định những nguyên tắc của các Đức Tiên Giáo Hoàng, để nhờ đó mà giải nghĩa rõ ràng những quan niệm của Giáo hội về các vấn đề quan trọng và mới lạ của thời đại.
PHẦN THỨ HAI
II. NHỮNG XÁC ĐỊNH CẦN THIẾT VỀ HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA BỨC THÔNG ĐIỆP RN
A. Sáng kiến tư nhân và sự can thiệp của chính quyền trong phạm vi kinh tế.
51. Nguyên tắc căn bản ai cũng phải công nhận, là trong phạm vi kinh tế dầu có những hành động tư nhân mưu ích riêng, và những hành động đoàn thể gây lợi ích chung, thì hành động tư nhân vẫn có quyền ưu tiên.
52. Nhưng vì những lý do mà các Đức Tiên Giáo Hoàng đã xác định, chính quyền cũng phải can thiệp, để gia tăng sản xuất cho phải lẽ, cần cho xã hội phồn thịnh và các công dân hưởng lợi.
53. Sự can thiệp căn cứ vào nguyên tắc bổ trợ; mục đích là định hướng, củng cố, bổ khuyết và kiện toàn sáng kiến tư nhân. Nguyên tắc bổ trợ được Đức Giáo Hoàng Piô XI đã định nghĩa trong bức thông điệp QA rằng: (x.QA số 57)
54. Thực ra, ngày nay khoa học và kỹ thuật phát triển rất nhiều. Nhờ vậy chính quyền đủ phương tiện hơn, hoặc để giảm bớt sự chênh lệch giữa các chi tiết của nền kinh tế, hoặc để giải hòa các địa phương của cùng một quốc gia, và cả các nước trong thế giới. Cũng nhờ đó chính quyền có thể hạn chế được những thiệt hại do những cuộc biến loạn gây nên trong phạm vi kinh tế, và tìm sẵn những phương dược linh nghiệm để tránh nạn đại chúng thất nghiệp. Bởi thế Ta yêu cầu chính quyền vốn phải phụ trách công ích, hãy dùng trăm nghìn phương cách đó để can thiệp vào phạm vi kinh tế nhiều hơn, trật tự hơn mà thích dụng vào vật đích ấy, những cơ cấu, những tổ chức, những khí cụ và những phương pháp đã có sẵn trong tay.
55. Nhưng phải nhớ rằng: Dầu hành động kinh tế của chính quyền thấm nhiễm đời sống cộng đồng bao nhiêu, nó cũng không thể nào loại trừ quyền tự do hành động của tư nhân. Hơn thế nữa chính quyền phải hậu đãi mọi hành động tư nhân, miễn là những quyền chính yếu của con người được bảo đảm, nhất là quyền và phận sự của từng công dân phải nuôi sống và cấp đủ sự cần cho gia đình. Bất cứ chế độ kinh tế nào cũng phải để từng cá nhân và giúp đỡ mọi người dùng quyền tự do sản xuất của mình.
56. Ngoài ra, lịch sử cũng chứng minh rằng: Xã hội chỉ phồn thịnh trong trật tự, khi mọi công dân và chính quyền cộng tác với nhau chặt chẽ. Lúc nào họ cũng phải hành động đồng ý với nhau: Phận sự của họ thì riêng biệt, nhưng dầu sao cũng phải thích hợp với những đòi hỏi của công ích, tùy theo hoàn cảnh, thời đại và phong hóa.
57. Kinh nghiệm cũng dạy rằng: Ở đâu thiếu sáng kiến tư nhân, thì ở đó chế độ độc tài hiện đến, nền kinh tế bị tê liệt trong rất nhiều chi nhánh quan trọng. Dần dần những sản phẩm cần tiêu dụng thì thiếu, và phải tổ chức thêm bao công vụ cần thiết cho con người không những được thỏa mãn nhu cầu phần xác, mà lại cả những xu hướng phần hồn, là những xu hướng có sức nhiệm gây nên và kích thích óc tạo dựng và sáng kiến của từng cá nhân.
58. Trái lại chính quyền không chịu can thiệp theo lẽ phải, hay là chỉ can thiệp dở dang, thì cả quốc gia sa vào những cuộc hỗn loạn không ai cứu vãn được, những dân đen bị kẻ giầu vô nhân đạo lợi dụng một sách tàn bạo. Cỏ lùng mọc trong ruộng lúa thể nào, bởi vậy nước nào cũng có những kẻ bất nhân, thừa dịp ấy để lạm dụng phe yếu đuối.
B. Vấn đề xã hội hóa:
Hiện tượng
59. Một trong những đặc điểm đời ta bây giờ, là cố gắng xã hội hóa mọi sự. Những mối giao tế giữa nhân loại mỗi ngày một thêm nhiều. Kết quả trong sự sinh hoạt và trong đủ mọi hành động thường xuyên. Loài người họp chung tìm liên lạc với nhau dưới mọi hình thức, và được tư pháp và công pháp xác nhận. Những cố gắng xã hội hóa này, nguyên do thì rất hợp thời: khoa học và kỹ thuật tiến bộ, năng lực sản xuất tăng lên, nền văn minh mỗi ngày một cao hơn.
60. Đời sống xã hội tiến hóa, vừa là tượng chứng, vừa là nguyên do của sự chính quyền mỗi ngày một can thiệp rộng sâu vào những vấn đề mật thiết liên quan với những xu hướng nội tâm của con người, toàn là những vấn đề quan trọng và tinh tế; như vấn đề bảo vệ sức khỏe, đào tạo thanh niên. Vấn đề hướng nghiệp: bình phục và tái huấn những lớp người bệnh tật về thể xác và trí não. Những sự xã hội hóa nói trên, cũng là kết quả tự nhiên của một khuynh hướng cực mạnh không ai thắng hãm được. Loài người tự nhiêm hướng về một đời sống tập đoàn, để kiếm được những lợi ích từng người mong đến, nhưng là lợi ích vượt qua năng lực tự nhiên của từng cá nhân. Chính vì khuynh hướng ấy, mà nhất là ngày nay, loài người đã tình nguyện tổ chức bao hội đoàn, bao cơ cấu, bao phong trào trong phạm vi quốc gia và quốc tế, và nhắm vào đủ mọi mục đích: kinh tế, xã hội, văn hóa, tiêu khiển, thể thao, nghề nghiệp hay chính trị.
Lợi ích và thiệt hại cũng nhiều
61. Lẽ cố nhiên tình trạng xã hội hóa nói trên thì lợi ích nhiều. Công dân cũng được nhờ rất nhiều. Như làm cho người dùng quyền lợi riêng trong phạm vi kinh tế xã hội dễ dàng và kết quả hơn, nhất là về sinh kế, thuốc men, giáo dục căn bản và phổ thông, tu nghiệp, nhà ở, việc làm, sự an nghỉ, và giải trí xứng đáng. Ngoài ra, nhờ những tổ chức thông tin, truyền bá tư tưởng rất tinh xảo như báo chí, chiếu phim ảnh, máy thu thanh, máy truyền hình; nên bất cứ người ta ở chỗ nào dầu xa gần bao nhiêu, thì ai nấy cũng dự thính được những việc xảy ra khắp ở hoàn cầu.
62. Nhưng đàng khác, sự phát triển giao tế trong đủ mọi phạm vi khía cạnh đời sống, đòi hỏi bao huấn lệnh hay luật lệ vốn phải xác định và chỉ dẫn thể cách liên lạc giữa nhân loại. Vì thế quyền tự do của từng cá nhân bị hạn chế một phần nào. Vì những kỹ thuật thường dùng, những phương pháp chỉ định, những điều kiện phải tuân giữ, chẳng còn mấy ai theo sáng kiến riêng, không cứ gì những ngoại hưởng đã hấp thụ lấy, chẳng còn mấy ai hành động được một cách tình nguyện, theo quyền lợi và nghĩa vụ riêng: Chẳng mấy ai tự do làm phát triển tâm trí tài năng theo lý tưởng được. Cứ đà xã hội này, phải chăng ngày mai con người sẽ phải sống như cái máy ư? Thiết tưởng là không.
63. Những cố gắng xã hội hóa nhân loại, đâu có tùy theo những tiềm lực tự nhiên hóa thiên nhiên. Trái lại, đó là những cố gắng ý thức tự do của con người. Dầu con người sống và hành động theo tính tự nhiên, nó vẫn ý thức trách nhiệm phải hành động theo những luật tự nhiên do đạo nhân tiền định cho, hay theo những luật kinh tế phải noi theo, dầu biết mình không sao gỡ mình ra khỏi mọi ảnh hưởng cảnh vực sinh hoạt riêng.
Làm sao mà lợi dụng tình trạng xã hội hóa này?
64. Như vậy, sự xã hội hóa mọi sự có thể và phải thực hiện theo một thể cách làm tăng gia ích lợi, và tùy theo có thể được làm giảm bớt mãi tai hại cho nhân loại.
65. Cho nên những người phụ trách chính quyền phải có một quan niệm xác đáng về công ích, gồm tắt tất cả mọi điều kiện cần thiết để con người phát triển nhân cách toàn diện của mình. Ta cũng thiết tưởng rằng: Những đoàn thể là trung gian giữa chính quyền và công dân; những tổ chức đủ thức vốn thể hiện sự xã hội hóa này phải đủ tự do, trước để đạt tới mục tiêu riêng trong sự thuận hòa và hợp tác. Sau để góp phần lợi cho công ích. Một yếu điều cũng cần thiết, là các hội đoàn kia, các tổ chức này phải kết thành những cộng đồng thật sự không những về hình thức, mà nhất là về cả bản tính nữa... Các nhân viên được đón nhận và đối xử cho xứng vị, họ được tham gia một cách hữu hiệu vào những hành động chung; thì các tổ chức đoàn thể nói trên mới đáng gọi là những cộng đồng thật sự.
66. Vậy trong thời kỳ những mối giao tế giữa nhân loại được phát triển lạ lùng, hễ quốc gia nào muốn bước tới một tổ chức hoàn bị, thì quốc gia ấy phải lo dung hòa cho thăng bằng sáng kiến tự do của từng cá nhân, những hội đoàn cùng chung một mục đích, với sự can thiệp của chính quyền, mục đích là phân phối và củng cố mọi sáng tác của tư nhân.
67. Một sự xã hội hóa, được thể hiện theo những chỉ lệnh trên và theo luật luân lý nữa thì sẽ không bao giờ gây nguy gì và không bao giờ trở nên một gánh nặng cho các công dân. Trái lại ta có thể hy vọng rằng: Mỗi người sẽ được tự do phát triển nhân cách và tài năng riêng, rồi tận tâm xây dựng xã hội theo chính nghĩa tứ hải giai huynh đệ. Theo lời Đức Piô XI viết trong thông điệp QA, đó là điều thiết yếu cho mọi quyền lợi và mọi nghĩa vụ của một đời sống xã hội công bằng được thỏa mãn điều hòa.
C. Vấn đề lương bổng.
Những sự bất công và bất hòa hiện tại.
68. Ta đau xót trước cảnh thê thảm hằng tái diễn ngay trước mặt ta, của những đám đông người lao động lương bổng quá ít không đủ sống và không đủ nuôi gia đình; nên không vươn mình lên một địa vị sinh hoạt cân xứng với chức vị con người. Lý do chính, là ở những miền ấy, nền kỹ nghệ còn mới phôi thai, chưa phát triển điều hòa.
69. Nhưng dầu sao ở đa số những nước ấy, bên cạnh thân phận khổ cực của đại chúng, cũng không thiếu gì những người ưu thế giầu sang, sống phóng đãng xa hoa không quản gì đến kẻ bần cùng xấu số.
Nơi khác dân chúng phải đảm nhận bao việc, nói được là làm như trâu bò, để nền kinh tế quốc gia tăng vọt lên trong một thời gian rất ngắn, đó là một sự trái ngược với công bằng và nhân đạo. Còn chỗ khác, công quỹ phần lớn chỉ được tiêu dụng cho quốc gia nổi tiếng vang lừng, hay là đổi những món tiền khổng lồ lấy thêm võ khí đạn dược cho quốc gia.
70. Cả trong những nước nền kinh tế tiến triển nhiều, cũng không thiếu gì những chức vụ, mối lợi không đáng kể, giá trị viễn vông; những lương bổng cao lớn, đang lúc những công việc cần cù sản xuất của bao công dân lương thiện cần mẫn bị hạ giá lương bổng quá ít không đủ cho nhu cầu. Quả thực, so sánh với phần lợi họ góp vào công ích, hoa lợi xí nghiệp mướn họ, lợi tức quốc gia, thì lương bổng của họ quá hạ, có thể nói được là một sự trái công bằng xã hội.
Làm sao định giá lương cho công bằng.
71. Lần nữa Ta nhận thực nghĩa vụ của Ta là quả quyết rằng: Ta không thể nào mbặc luật thị trường hay mặc kẻ ưu thế quy định giá lương trả công thợ một cách độc đoán, bèn phải quy định theo luật công bằng và nhân đạo. Số lương công nhân lĩnh nhận phải vừa đủ cho họ sống xứng vị con người và cấp đủ sự cần cho gia đình họ. Vậy muốn định đoạt số lương phải chăng cần xét ba điều: Năng lực sản xuất của từng người, tình trạng kinh tế của xí nghiệp, những đòi hỏi của công ích, nhất là những đòi hỏi của một công việc kéo dài quanh năm, và sau hết những đòi hỏi lợi ích chung của các quốc gia, tức là những tổ chức quốc tế kết tinh nên bởi nhiều quốc gia, khác nhau về quốc tính và diện tích.
72. Đời nào, chỗ nào những nguyên tắc ấy đều có giá trị, nên bắt buộc phải thực hiện. Nhưng trong thực hành, ai cũng phải tùy trường hợp mà cân nhắc nguồn lợi kẻ ấy sử dụng được. Những nguồn lợi ấy, quả thực hay thay đổi luôn, về phẩm và lượng giữa nước nọ nước kia, và trong một nước tùy theo từng địa phương và tùy thời tiết.
Làm sao mà dung hòa được sự phát triển kinh tế với sự tiến bộ của xã hội.
73. Ngày nay nền kinh tế quốc gia ở nhiều nơi phát triển theo một tốc độ nhanh chóng lạ lùng, nhất là từ sau đệ nhị thế chiến vừa qua. Trong trường hợp đó ta phải đề cao một nguyên tắc tối hệ của công bằng xã hội, là sự tiến bộ của xã hội phải đi song đối và hòa nhịp với sự phát triển kinh tế. Nước thêm phong phú thì mọi từng lớp công dân phải hưởng phần đều hòa và không trừ ai. Ai cũng phải ân cần lưu ý, và dùng mọi phương tiện để mọi giai cấp xã hội sở hữu tiền tài khỏi quá chênh lệch. Sự quá chênh lệch ấy không những phải đề phòng cho nó khỏi tăng gia mãi, mà lại phải hết sức lo liệu để nó giảm bớt dần dần.
74. Lời Đức Tiên Giáo Hoàng Piô XII đã nói, thì chí lý thật: Kinh tế quốc gia phát nguồn từ ở những công việc các công dân chung sức hoàn thành trong cộng đồng xã hội. Vì lẽ ấy, nên mục đích của nó là cấp cho công dân đủ điều kiện vật chất, cần cho từng người làm phát triển nhân cách và tài năng riêng, một cách đầy đủ và đều hòa. Hễ quốc gia nào thực hiện được mục đích ấy một cách vĩnh viễn, thì quốc gia ấy thật phong phú, vì toàn dân hưởng phúc chung và từng người hòa thuận sử dụng những nguồn lợi thế tục theo đúng ý Tạo Hóa đã tiền định.
Cứ như trên, mực đo lường sự phồn thịnh của từng quốc gia, không phải là tổng số phẩm vật dư dật hay còn thiếu đâu, mà là cách thức phân công chia của cho công bằng, tức là cách thức hữu hiệu làm cho các công dân thuận bề phát triển và kiện toàn nhân cách riêng. Nền kinh tế quốc gia toàn diện, nguyên gốc và cứu cánh duy nhất là thế.
75. Về phương diện ấy, Ta phải nhắc đến một thực hiện thường quen ở nhiều nước bây giờ: Có những đại xí nghiệp và xí nghiệp trung bình đã quen lấy phần hoa lợi lập tư sản riêng, nên về tài chính họ tự túc được. Nhờ vậy năng lực sản xuất của những xí nghiệp được tăng gia rất nhiều. Nhưng đồng thời Ta phải quả quyết rằng: Vì các xí nghiệp ấy tự túc được về tài chánh, họ cũng phải công nhận cho công nhân quyền đòi một phần vốn tín dụng, nhất là khi số lương của công nhân không vượt quá mức tối thiểu.
76. Trong phạm vi ấy, ta phải nhấn mạnh vào một nguyên tắc mà chính Đức Piô XII đã xác định trong bức thông điệp QA rằng: voir au titre capital and travail. (QA)
77. Kinh nghiệm dạy rằng: ta có sẵn trăm nghìn thể cách thực hiện nghĩa vụ công bằng này. Tỉ dụ như một việc đáng ước mong ngày nay hơn cả đời Đức Tiên Giáo Hoàng, là phải mở đường cho công nhân được tham gia vào quyền sở hữu của xí nghiệp đã mướn họ làm việc. Đức Piô XI viết rằng:
Lương bổng công nhân và công ích quốc gia.
78. Ta cũng nên nhắc lại: sự thăng bằng giữa lương bổng và lợi tức chỉ có thể xác định được, khi ta đã cân nhắc kỹ công ích của từng quốc gia, và lợi ích chung của toàn thể nhân loại.
79. Công ích của từng quốc gia buộc phải liệu cho một số công nhân, có việc làm càng nhiều càng tốt. Phải chú ý đừng để những nhóm công nhân được biệt đãi, hoặc trong nước, hoặc trong cả giới lao động, hết sức duy trì sự thăng bằng giữa lương bổng và giá hàng, mở rộng cửa cho một số người được bước tới và hưởng dụng những vật phẩm và những tiện nghi của một đời sống tiến hóa; hoặc thủ tiêu, hoặc hạn chế sự chênh lệch giữa các ngành kinh tế: Canh nông, kỹ nghệ, tiện nghi thông dụng. Phải duy trì sự thăng bằng giữa sự phong phú mỗi ngày tăng lên, và sự mở mang những công vụ thiết yếu, lo cho mọi cơ cấu sản xuất luôn luôn tiến hóa theo sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, nâng cao địa vị sinh hoạt không những người ta hưởng hiện tại, mà lại còn bắt đầu chuẩn bị một hậu lai khả quan hơn...
80. Công ích toàn thể nhân loại bắt buộc phải loại trừ những mưu ý thâm độc khỏi những cuộc cạnh tranh kinh tế của các dân tộc: Phải liệu sao cho nền kinh tế quốc gia tiến triển đều hòa trong sự cộng tác thân mật và kiến hiệu. Sau hết phải dùng đủ mọi phương cách hiệu lực để các dân nước chậm tiến chóng khuếch trương trình độ kinh tế của họ.
81. Lẽ cố nhiên công ích quốc gia và quốc tế nói trên, cũng phải tôn trọng, hoặc khi định đoạt phần hoa lợi phải chia cho những người phụ trách chỉ huy xí nghiệp, (phần ấy gọi là phần chia lợi tức do xí nghiệp gây nên), hoặc khi chia phần hoa lợi với những nhà tư bản đã góp vốn.
Xí nghiệp.
Tổ chức cơ sở cho công bằng.
82. Tuân giữ công bằng trong sự phân công chia của thì không đủ. Công bằng còn phải tôn trọng ngay trong tổ chức làm, xí nghiệp và các cơ cấu sản xuất nữa. Xét theo lý đương nhiên con người hành động và sản xuất, phải chịu phần trách nhiệm và kiện toàn nhân cách ngay trong việc làm của mình.
83. Vì thế, hễ khi nào thấy bất cứ tổ chức kinh tế nào khiến công nhân mất cả nhân cách, làm việc không chút trách nhiệm: chỉ là cái máy không sáng tác được điều gì, thì ta xét tổ chức kinh tế ấy là một tổ chức bất công, không cứ gì sản phẩm nhiều hay ít, được chia phần cho công bằng và nhân đạo hay không.
Xí nghiệp thì trăm thể thức.
84. Ta không thể nào xác định trong một thành ngữ duy nhất, những tổ chức kinh tế nào là xứng với nhân cách con người hơn cả, và là những tổ chức hiệu nghiệm nhất, cho con người ý thức trách nhiệm riêng. Dầu sao Đức Tiên Giáo Hoàng Piô XII đã ban bố một vài huấn lệnh rất hợp thời: Những cơ sở tiểu và trung bất cứ về nông, công, thương hay kỹ nghệ phải được bảo vệ và nâng đỡ. Nhờ đã kết thành những hợp tác xã, các cơ sở đó hưởng được những tiện nghi và những ân huệ riêng của các đại xí nghiệp. Ở những chỗ nào đại xí nghiệp có năng lực sản xuất mạnh hơn, thì chỗ ấy giao kèo cần lao, cần phải bổ túc bằng những giao kèo xã hội.
85. Thành ra phải bảo vệ và cũng cố tùy theo những đòi hỏi của công ích, và tùy theo sự tiến bộ của kỹ thuật, và những tiểu công nghệ, những cơ sở gia đình nông dân và các hợp tác xã vốn phải bổ khuyết và ủng hộ những kinh doanh ấy.
Tiểu ban công nghệ và hợp tác xã.
86. Trong đoạn sau Ta sẽ bàn về các kinh doanh nông nghiệp. Tại đây Ta phải có đôi lời về các “tiểu công nghệ và các hợp tác xã”.
87. Hai tổ chức kinh tế này chỉ có thể phồn thịnh và kết quả, khi đồ dùng và phương kế sản xuất luôn luôn đổi mới cho thích ứng với đà tiến của khoa học chuyên môn hiện tại, hoặc cho phù hợp với nhu cầu và sở thích kẻ tiêu thụ sản phẩm. Chính các nhà tiểu công nghệ và các nhân viên của hợp tác xã, phải thích ứng công việc của họ với thời đại.
88. Bởi thế việc cần thiết nhất, là huấn luyện họ ít nhất về kinh tế học tổng quát, và những thuật chuyên môn thích nghi.
Họ cũng đáng được chính phủ ủng hộ bằng một chính sách thích đáng, nhất là trong phương diện giáo dục, thuế pháp, ngân hàng, an ninh và các bảo đảm xã hội.
89. Các nhà tiểu công nghệ và hợp tác xã này hợp thành một năng lực sản xuất quan trọng. Họ đắc lực cộng tác vào đà tiến của xã hội văn minh. Nên chính quyền can thiệp nâng đỡ họ, thì thật đáng khen và đáng thúc đẩy.
90. Cũng vì thế mà Ta đem hết tình cha con khuyên nhủ các nhà tiểu công nghệ và hợp tác xã viên, dầu rải rắc khắp tứ phương cũng là con cái thân yêu của Ta, hãy ý thức trọng trách của họ. Bởi vì, nhờ họ, tinh thần trách nhiệm, ý chí cộng tác, và những cố gắng của con người đã được thúc đẩy mãnh liệt tạo nên những tác phẩm tinh vi mới mẻ.
Công nhân tham gia vào sự sống chung của xí nghiệp.
91. Ta đồng ý với các vị tiền nhiệm: “Nguyện vọng của công nhân là muốn tham gia vào đời sống xí nghiệp đã mướn họ làm việc. Nhưng tham gia theo mực độ nào?” - Ta không thể nào quy định trước được, vì nó tùy theo hoàn cảnh thực tế của mỗi xí nghiệp. Mỗi xí nghiệp tình trạng khác nhau và dầu trong một xí nghiệp đi nữa, tình trạng cũng hay thay đổi; nhiều khi tự tận gốc và bất ngờ. Thế nhưng mà theo ý Ta, công nhân cũng phải góp một phần hữu hiệu trong tổ chức xí nghiệp tư hay công đã mướn họ làm việc. Người ta phải đua nhau hóa xí nghiệp thành một cộng đồng có thể cách nhân loại, hầu cho mỗi nhân viên cùng một tinh thần được liên lạc với nhau để hoàn tất công việc và thể hiện phận vụ riêng.
92. Mục đích cao siêu ấy, đòi hỏi ở ban giám đốc trị sự, kẻ đốc công và toàn thể công nhân, những mối giao thiệp với nhau đầy tình nghĩa tôn trọng, kính phục và thân yêu nhau. Nó cũng bắt buộc mọi người cộng tác vào công việc chung một cách thành thực và hữu hiệu. Ai cũng phải nhận thực rằng: Công việc của mình không phải chỉ là một sinh kế gây lợi cho mình, mà lại là một nhiệm vụ mình đã đảm nhận để gây lợi ích chung cho anh em.
Công nhân phải có quyền góp ý kiến, mà lại góp phần công trong việc tổ chức và phát triển xí nghiệp mới là phải lẽ. Đức Piô XII dạy rằng: “Phận vụ kinh tế xã hội ai cũng mong gánh vác một phần nào, thì nên cấm không cho ai làm việc vô trách nhiệm, mà chỉ lệ thuộc người khác trăm phần trăm. Thực ra xí nghiệp nào muốn tiến triển đều hòa, tất phải tôn trọng nhân cách của con người, nhưng dầu sao ban giám đốc cũng phải thống nhất, là điều kiện cần thiết để cho mọi việc chạy xuôi và kết quả nhiều. Nhưng không phải vì thế mà công nhân phải cứ ngày nào ngày ấy làm việc im lặng như một cái máy, không được phát biểu ý kiến, không rút kinh nghiệm, bao giờ cũng thụ động tuân theo ý định của ban giám đốc chia công tác và tổ chức công việc cho họ.
93. Sau hết, chính nhân tính đòi cho công nhân quyền lãnh nhận những trọng trách trong xí nghiệp của họ. Việc ấy lại rất thích hợp với đà tiến hiện tại của kinh tế, xã hội và quốc gia nữa.
94. Tội nghiệp thay ngày nay nền kinh tế xã hội đã quá chênh lệch, nên hay vi phạm công bằng và nhân đạo. Cũng có bao tà thuyết khuếch trương mạnh về mục đích, tổ chức và phận vụ kinh tế. Nhưng dầu sao đà tiến bộ của khoa học và kỹ nghệ cứ tiến hóa, đổi mới và phát triển theo một tốc độ nhanh chóng lạ lùng. Thành ra công nhân cần phải có năng lực và tài chuyên nghiệp hơn trước nhiều. Phải dành cho họ đủ phương tiện và thời giờ học tập, để họ mỗi ngày một biết rộng hơn, thêm văn hóa hơn và nhiệt thành với phận sự tu đức cùng tôn giáo hơn.
95. Ngày nay xã hội đủ phương tiện để kéo dài thời kỳ giáo dục và tu nghiệp cho các công nhân còn thiếu niên.
96. Nhờ vậy công nhân sẽ càng ngày càng đủ điều kiện gánh vác những trọng trách của họ đối với xí nghiệp đã nhận họ làm việc. Chính quyền cũng nên đánh thức công dân đủ mọi tầng lớp xã hội về phần trách nhiệm họ phải đảm nhận đối với công ích.
Những công đoàn tham gia vào vận mệnh quốc gia.
97. Ai cũng nhận thực các công đoàn ngày nay đều phát triển rất nhiều. Sự thường các công đoàn ấy cũng được pháp luật quốc gia chuẩn y, và những tổ chức quốc tế chấp nhận. Các công đoàn phần nhiều không còn xúi giục công nhân phải tranh đấu nữa; nhưng, một phải cộng tác với chủ nhân, nhờ những khế ước hiệp đồng. Một điều cần thiết, hay ít nhất rất thích thời; là mong cho công nhân rộng quyền, góp ý kiến và gây ảnh hưởng cả ở ngoài xí nghiệp của họ, đến bất cứ đoàn thể xã hội nào.
98. Ngày nay xí nghiệp nào, bất phân tổ chức, năng lực, ảnh hưởng quốc gia lớn, nhỏ, nhiều, ít thể nào, cũng nhập vào tổ chức xã hội kinh tế quốc gia.
Xí nghiệp phồn thịnh hay sút kém tùy theo tổ chức đó.
99. Nhưng định số phận của nền kinh tế quốc gia, không phải là quyền riêng của từng cơ quan sản xuất đâu. Đó là quyền chung của chính phủ, và các cơ cấu phụ trách của từng chi tiết của nền kinh tế, hoặc quốc gia hoặc quốc tế.
Thành ra, một điều rất nên mà lại rất cần nữa, là dành cho công nhân hay những người bênh hộ quyền lợi, nhu cầu và xu hướng công nhân, một chỗ ngang hàng với các chủ nhân và đại diện của họ bên chính quyền và các cơ cấu nói trên.
Nghiệp đoàn công nhân.
100. Trước hết Ta phải đem hết tâm tư và tình cha con, mà nhìn đến những hội đoàn công nhân liên nghệ và các nghiệp đoàn lao công, đã lấy học thuyết công giáo làm căn bản và đang hành động ở khắp năm châu. Ta quên sao được những công lao anh em đã gánh vác, những trở lực anh em đã lướt thắng; hoặc trong phạm vi quốc gia, hay trong phạm vi quốc tế để bênh vực quyền lợi và cải thiện số phận vật chất lẫn tinh thần của công nhân một cách hữu hiệu liên tục.
101. Những người ấy còn đáng khen nữa, vì những kết quả họ đã thu lượm không những rực rỡ tức thời, mà lại gây ảnh hưởng đến cả giới lao công. Bằng cách phổ biến ra những nguyên tắc lành mạnh về lý thuyết và thực hành công giáo. Nhờ họ, đạo công giáo càng ngày càng ảnh hưởng rộng xa thánh thiện.
102. Ta cũng rất tán thành sự nghiệp của các con quý yêu, tinh thần công giáo cao xa, đã hoàn tất một công việc rất quan trọng, ngay trong những nghiệp đoàn không công giáo, nhưng trong tôn trọng luật thiên nhiên và công nhận quyền tự do tôn giáo và luân lý của các nhân viên.
103. Sau hết Ta thật tình thán phục tổ chức lao động quốc tế (OIT) đã từ mấy mươi năm đem hết tài lực và khôn khéo tìm chấn hưng một nền kinh tế xã hội công bằng và nhân nghĩa ở khắp thiên hạ. Nhờ vậy, những quyền lợi chính đáng của công nhân mới được tôn trọng.
Quyền tư hữu.
Phân tách sở hữu và quyền hành.
104. Trong những năm vừa qua ai cũng đã nhận thấy các xí nghiệp tìm cách tách biệt quyền hành, vốn chỉ huy mọi công việc, và quyền sở hữu của các cổ phần viên cấp vốn. Vì vậy chính quyền gặp phải bao trở lực. Làm sao mà biết được vật đích ban chỉ huy các xí nghiệp, nhất là các xí nghiệp ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế quốc gia, không bao giờ phạm đến công ích mà chính quyền vốn phải bảo vệ? Xét theo kinh nghiệm, trở lực trên vẫn còn nguyên vậy, không cứ gì tư bản cần thiết cho các xí nghiệp lớn do tư nhân hay do các tổ chức công cung cấp cho.
Sống yên vì tổ chức bảo hiểm và nghề chuyên môn.
105. Một điều chắc chắn, là ngày nay nhờ có những hội bảo hiểm và những sở cứu tế xã hội, thì số người hướng về tương lai một cách yên trí và bình thản càng ngày càng đông. Xưa kia chỉ có những người có tài sản, dầu là một tài sản nhỏ bé đến đâu, mới sống được bình thản như vậy.
106. Ngày nay cũng có những người không thèm có sở hữu riêng, một chỉ mong có nghề nghiệp chuyên môn. Người ta tin ở những hoa lợi do một chuyên nghiệp gây nên, hay là quyền lợi do cần lao mà có, hơn cả những ân huệ hay những quyền lợi chỉ căn cứ vào tư bản.
107. Thái độ ấy biểu diễn nhân cách của cần lao. Cần lao từ ở con người phát xuất. Thành ra nó quý hơn cả sự giầu sang hay mọi của phú quý khác, vốn chỉ nâng đỡ con người từ bên ngoài mà thôi.
Đó là một bằng chứng rõ ràng, nhân cách đã phát triển nhiều trong con người hiện tại.
108. Bởi thế ngày nay đã không thiếu gì người thắc mắc rằng: Thời thế hoàn cảnh đã biến đổi nhiều, không biết nguyên tắc kinh tế xã hội các Đức Tiên Giáo Hoàng đã công bố xưa còn đủ sức mạnh để bênh vực quyền sở hữu tự nhiên của con người đến các vật phẩm và các khí cụ sản xuất; Không biết những nguyên tắc ấy còn giá trị và hiệu lực như xưa chăng?
Quyền sở hữu vẫn có giá trị.
109. Nhưng thắc mắc làm gì? Vì là vô lý...
Quyền tư hữu gồm cả những khí cụ sản xuất, đời nào cũng có giá trị, vì là quyền thiên nhiên bất tử. Con người có trước, xã hội có sau. Nên mọi tổ chức xã hội đều quy về con người là cùng đích. Ngoài ra đã nhận quyền tự do hành động của từng người trong phạm vi kinh tế, tất nhiên cũng phải nhận rằng: Tư nhân cũng tự do chọn lựa và hưởng dụng đủ mọi phương tiện cần thiết để thể hiện quyền ấy. Kinh nghiệm và lịch sử cũng dạy rằng: Hễ chính phủ nào chối không cho tư nhân dùng quyền đến những khí cụ sản xuất, thì chính phủ ấy cũng phạm đến hay bài trừ mọi quyền tự do căn bản khác. Như vậy đủ rõ, quyền tư hữu bảo đảm và củng cố đủ mọi quyền tự do của con người.
110. Như vậy ta mới hiểu những thay đổi lạ của bao phong trào và tổ chức xã hội chính trị quyết dung hòa tự do và công bằng: Trước, họ nhất định bài trừ quyền tư hữu đến các khí cụ sản xuất. Sau, vì xã hội đã biến chuyển, họ rút kinh nghiệm đổi ý, và sẵn sàng công nhận quyền tư hữu ấy.
111. Về vấn đề đó, Ta đồng ý với Đức Tiên Giáo Hoàng Piô XII, và nhắc lại những huấn lệnh của Ngài rằng:
Giáo hội bênh vực quyền tư hữu, đã có một mục đích cao siêu, vừa xã hội vừa luân lý. Giáo hội chẳng có ý duy trì tình trạng hiện tại, nguyên vì lý do ấy thể hiện thánh ý Chúa. Giáo hội cũng không nghiêng ngả về bên kẻ giầu sang quyền thế, mà bỏ mặc kẻ nghèo hèn người vô sản đâu.
Trái lại Giáo hội chỉ quyết cải hóa chế độ tư hữu cho thích hợp với ý định của Chúa và cân xứng với nhân cách con người hơn.
Quyền tư hữu vốn bảo đảm quyền tự do của con người, và nói được là một yếu tố thiết yếu của một tổ chức xã hội chính đáng.
112. Vì ở rất nhiều nước ngày nay, nền kinh tế được nâng cao vì năng lực sản xuất phát triển mau chóng lạ lùng; thì công bằng hợp tác với nhân đạo cũng đòi tăng lương bổng công nhân cho cân xứng, và tùy theo luật mực công ích chỉ định.
Phổ biến quyền dùng sở hữu.
113. Quyền tư hữu bao quát cả khí cụ sản xuất nhất định là quyền tự nhiên. Quả quyết điều ấy là phải, nhưng vẫn chưa đủ. Ta phải cố gắng cho mọi tầng lớp xã hội hưởng dụng được quyền tư hữu quý hóa này.
114. Đức Tiên Giáo Hoàng Piô XII công bố rằng: Nhân cách đòi hỏi ở từng người phải có quyền tư hữu đến mọi của quý đời này, làm căn bản của một đời sống xứng đáng. Kèm theo đó lẽ dĩ nhiên có một nghĩa vụ, là liệu làm sao cho từng người có một sở hữu riêng. Đàng khác vì cần lao có giá trị đặc biệt, thì xã hội phải tổ chức làm sao cho cả giai cấp công nhân cũng đủ điều kiện chiếm lấy một phần sở hữu, cho dù sở hữu ấy bé nhỏ đến đâu đi nữa.
115. Không bao giờ bằng bây giờ, ta phải tuyên bố rằng: Phải lo liệu cho số người được hưởng quyền tư hữu trong xã hội càng ngày càng tăng thêm đông. Lý do là vì, những dân nước đang tiến triển về kinh tế, mỗi ngày một nhiều hơn. Bởi thế ai khéo dùng những kỹ thuật kinh tế hiệu nghiệm ngày nay, thì rất có thể gây nên một chính sách xã hội kinh tế thuận tiện cho số người có sở hữu riêng thêm đông mãi, ít nhất cho ai nấy cũng có nhà ở, đất ruộng, đồ dùng nhà tiểu công nghệ, nông trại gia đình, hay cổ phần trong các trung, đại xí nghiệp, như đã thấy có ở những nước kinh tế xã hội tiến bộ hơn.
Quyền công hữu.
116. Đành rằng quyền tư hữu ở trên là quyền tự nhiên của từng người, nhưng chính phủ và các công sở cũng có thể giữ độc quyền trong những cơ cấu sản xuất có kèm theo một chuyên quyền kinh tế, mà khi tư nhân chiếm hữu sẽ làm nguy hại đến công ích.
117. Khuynh hướng đời ta là đòi mở rộng các sở hữu dành cho công quyền. Lý do vì công ích buộc chính phủ phải có những công quyền rộng rãi hơn. Nhưng dầu sao cũng cần phải nại đến nguyên tắc bảo trợ ta đã đề cập đến ở trên: Chính phủ và các công sở chỉ có thể đòi quyền hành tùy theo những đòi hỏi của công ích. Những mưu kế hạn chế hay tệ hơn nữa bài trừ quyền tư hữu đều phải xa tránh.
118. Sau hết, kẻ phụ trách mọi công cuộc kinh tế của chính phủ hay của các công sở đều phải là những người tài trí lỗi lạc, chuyên môn đặc sắc liêm chính và trung nghĩa không ai hồ nghi được. Chính quyền còn phải theo dõi, kiểm soát liên tục, ân cần tất cả các hành động của họ để tránh khỏi những chuyên quyền kinh tế quốc gia, dần dần rút vào trong tay một số tư nhân ưu thế, là một tai hại lớn cho công ích quốc gia.
Quyền tư hữu với trách vụ của nó.
119. Các Đức Tiên Giáo Hoàng đã không ngừng nhắc đến trách vụ xã hội của mọi quyền tư hữu. Theo ý Chúa tiền định, mọi vật phẩm thiên nhiên, đều có mục đích là cung cấp đủ nhu cầu cho toàn thể nhân loại: Trong bức thông điệp RN của Đức Lêô XIII có câu: (RN, 19)
120. “Không phải vì trách chính phủ và các sở mỗi ngày một mở rộng mà trách vụ của quyền tư hữu ngày càng biến đi. Trách vụ ấy từ ở quyền tư hữu phát xuất ra. Ngoài ra đời nào cũng đã từng có những tình trạng đau thương những nỗi hàn vi cơ cực, chính phủ không sao biết được, nên cũng không sao hàn gắn được. Phạm vi mở rộng cho lòng từ thiện, và đức bác ái công giáo vẫn còn mênh mông bát ngát... Nhất là để thỏa mãn những nhu cầu phần hồn công quyền không thể nào đem lại hiệu lực bằng những hành động tư nhân, và các nghiệp đoàn tư nhân”.
121. Quyền tư là quyền tự nhiên và chính đáng. Phúc âm nhấn mạnh vào điều đó rất nhiều. Nhưng mặt khác, Chúa Kitô luôn tha thiết yêu cầu kẻ giàu sang, hãy biến đổi của cải đời này nên những của quý đời sau bằng cách san sẻ kho vàng của họ với những người nghèo khổ.
“tích trữ kho tàng dưới đất làm gì ! Mối mọt gỉ sét, sâu bọ sẽ nuốt dần. Kẻ trộm đào ngạch lấy đi. Chúng con hãy tích trữ kho tàng trên trời là chỗ không lo gỉ sét, không ai lấy trộm được”.
Chúa Kitô lại tuyên bố: “Bố thí cho kẻ nghèo tức là bố thí cho Thầy”. “Nếu lần nào chúng con thi ân cho kẻ hèn kém nhất trong anh em là chúng con thi ân cho chính mình Ta”.
PHẦN THỨ BA
III. NHỮNG KHÍA CẠNH MỚI CỦA VẤN ĐỀ
122. Lịch sử tiến triển không ngừng, người ta mỗi ngày một thấy rõ luật công bằng và nhân đạo, không những cần chấn hưng, giữa chủ nhân và công nhân, mà còn giữa mọi lãnh vực kinh tế trong từng quốc gia, giữa từng địa phương nguồn lợi khác nhau, và trên cả hoàn cầu giữa các quốc gia, trình độ kinh tế còn quá chênh lệch.
Công bằng và nhân đạo giữa canh nông và những chi tiết kinh tế khác.
123. Trước hết ta phải nói qua về canh nông. Dân số nông thôn hầu như không giảm bớt. Nhưng dầu sao ta cũng phải nhận thực rằng nông dân hay di cư từ chốn thôn quê về thành thị, hay chỗ đông người ở. Cuộc di cư này ta có thể thấy rõ ở mọi quốc gia đôi khi còn lôi kéo cả đa số quần chúng. Vì thế đã trở thành vấn đề khắt khe, về sinh hoạt và phẩm giá của con người.
124. Việc này cũng dễ hiểu: Kinh tế phát triển về hai phương diện: kỹ nghệ và công vụ. Như thế, số người bỏ đồng quê về thành thị làm công nhân hay công chức ngày càng đông hơn. Có rất nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do chính là sự khuếch trương kinh tế.
Nhưng còn bao lý do phụ tùy khác: Có người chạy trốn một lãnh vực sinh hoạt quá hẻo lánh không một tia hy vọng giúp họ vươn mình lên một địa vị sinh hoạt văn minh hơn. Người lại vì tính hiếu kỳ ưa sống đời phiêu lưu, ngày nay đã trở nên một xu hướng cực mạnh. Người khác mong chóng giàu sang hơn. Người khác lại khát vọng một cuộc sống tự do, đầy những dễ dàng của chốn thành thị. Nhưng đa số nông dân bỏ đồng ruộng vì thấy các nông sản bị sút giảm về năng lực sản xuất, hay về địa vị sinh hoạt của các dân quê không tiến triển mấy.
Những luật lệ bảo vệ canh nông.
125. Để giải quyết một vấn đề quan trọng như thế, vấn đề làm cho hầu hết các quốc gia ngày nay phải thắc mắc, tất nhiên phải có những luật lệ căn bản để tránh giá các nông sản khỏi chênh lệch quá đối với sản phẩm kỹ nghệ, và hoa lợi của các công vụ. Còn phải có những luật lệ đề cao địa vị sinh hoạt của nông dân để họ cũng được hưởng những tiện nghi dành cho công nhân và công chức sống ở thành thị. Sau hết, phải liệu sao cho dân quê khỏi tự ty mặc cảm, và thấy dầu bị giầm mưa giãi nắng giữa đồng ruộng, họ cũng đủ phương tiện mở mang nhân cách, vươn mình lên địa vị văn minh, và nhìn tương lai với những đôi mắt đầy tràn hy vọng.
126. Những huấn lệnh sau đây rất thích thời và có thể áp dụng trong mọi trường hợp. Nhưng đành rằng: những huấn lệnh ấy phải áp dụng tùy theo thời thế hoàn cảnh cho phép, khuyến khích và đòi hỏi.
Cung cấp cho thôn quê những phương tiện nghệ thuật và văn hóa.
127. Đầu hết, mọi người phải thi đua, và hơn hết là những người cầm quyền, phải chung sức cung cấp cho thôn quê đủ phương tiện về nghệ thuật và văn hóa: Đường xá, xe vận chuyển, đường giao thông, nước máy, nhà ở, sở y tế, trường tiểu học, huấn nghiệp kỹ nghệ; đủ nhu cầu về phụng vụ, phương tiện giải trí, những vật dụng cần thiết trong một gia đình thôn quê.
Nơi nào dân quê không đủ thỏa mãn những nhu cầu của một đời sống xứng đáng, thì nơi đó nền kinh tế xã hội sẽ sút kém hay chậm tiến, và sẽ không còn lý do gì để ngăn cản họ rời bỏ đồng ruộng. Họ bắt đầu di cư không ai có thể kiểm soát.
Canh nông và kỹ nghệ.
128. Một việc nên chú ý là phải lo khuếch trương nền kinh tế quốc gia một cách có trật tự và đều hòa, trong đủ mọi chi tiết: Canh nông nói riêng phải cải tiến theo những phương pháp tối tân, tùy theo tình trạng kinh tế cho phép hay bắt buộc. Những phương pháp ấy, có thể áp dụng vào phương pháp trồng trọt, và những nông sản nên canh tác, nên bỏ khí cụ xưa và dùng máy móc. Ai cũng phải lo sao cho canh nông tiến triển song song với mỹ thuật và kỹ nghệ.
129. Như thế, có lẽ canh nông sẽ tiêu thụ rất nhiều sản phẩm do kỹ nghệ sản xuất, và đòi bao công vụ thích nghi hơn. Đối lại, canh nông sẽ cấp cho mọi khía cạnh kỹ nghệ, công vụ, và cả cộng đồng xã hội những nông sản thích hợp hơn với những nhu cầu của tòan dân tiêu thụ, về lượng cũng như về phẩm. Như vậy, canh nông cũng sẽ góp phần vào việc duy trì tiền tệ cho vững giá, là điều kiện cần thiết cho nền kinh tế quốc gia phát triển đều hòa.
130. Thể hiện những huấn lệnh mới nói trên sẽ đem lại bao lợi ích: Như việc kiểm soát những nông dân phải di cư vì nghề nông được tối tân hóa sẽ trở nên dễ dàng. Những nông dân bị sa thải, được kiểm soát rồi sẽ có thể đào tạo theo chuyên môn nghề nghiệp khác, và đưa sang một khu vực kinh tế mới. Lúc gia nhập cảnh vực sinh hoạt mới họ sẽ được ủng hộ về mọi phương diện: vật chất, văn hóa, tôn giáo một cách dễ dàng và chắc chắn hơn.
Ít vấn đề liên quan với một chính sách canh nông thích thời:
131. Muốn cho các chi tiết kinh tế, phát triển đều hòa, thì có một vài điều quan trọng, chính quyền phải lưu ý về ngành canh nông như thuế má, nông tín, bảo hiểm xã hội, thị giá, kỹ thuật nông thôn, canh tân các cơ sở nông thôn.
Thuế má:
132. Thuế má công bằng và nhân đạo, nguyên tắc căn bản: “Tỷ lệ tiền thuế công dân đóng góp phải tính theo khả năng tài chính của họ”.
133. Nhưng công ích buộc chính phủ định số tiền thuế nông dân lưu ý đến một sự kiện của giới canh nông là nông dân phải chờ lâu tháng mới thu nhập được lợi tức mà lợi tức nông dân hay bấp bênh. Nhiều khi họ khó tìm được số vốn cần thiết để mở mang nông sản là khác.
Nông tín:
134. Vì thế những nhà tư bản thường hay tung vốn đầu tư vào các cơ cấu sản xuất kỹ nghệ, mà họ không thích hùn vốn vào canh nông. Nông dân cần phải vay tiền lập vốn, để họ mở mang nông trại. Nhưng họ khó vay nặng lãi. Nhiều khi số lãi tính theo giá thị trường, họ cũng không trả được. Do đó, công ích đòi ở chính quyền lập một quỹ tiền tệ riêng cho giới canh nông, và lập thành những cơ sở nông tín cho nông dân kiếm được vốn cần thiết, mà không phải trả lãi quá nặng.
Hội bảo hiểm và cứu tế xã hội.
135. Trong lãnh vực nông nghiệp, thiết tưởng nên có hai hệ thống bảo hiểm: một hệ thống cho những nông phẩm, một hệ thống cho nông dân và gia đình của họ. Kinh nghiệm dạy rằng: Sự thường lợi tức nông dân kém hơn lợi tức công nhân kỹ nghệ và công chức. Vậy căn cứ vào vào đó mà tổ chức những hội bảo hiểm và cứu tế nông dân kém hơn những hội bảo hiểm và cứu tế công nhân thật là lỗi đến công bằng xã hội. Mọi tổ chức bảo hiểm và cứu tế, thuộc bất cứ lãnh vực kinh tế nào phải đều giống nhau không quản gì đến lợi tức nhiều ít của những người thụ hưởng.
136. Vì những hội bảo hiểm và cứu tế xã hội giúp chính quyền phân chia lợi tức quốc gia giữa các công dân, một cách công bằng và nhân đạo thì những hội đó là phương pháp linh nghiệm nhất để giảm bớt sự chênh lệch giữa các giai cấp xã hội.
Bảo vệ giá nông phẩm:
137. Các nông phẩm có tính cách riêng, giá bán phải được bảo đảm theo những phương pháp các kinh tế gia đã hoạch định ra. Mong rằng chính nông dân phải được phụ trách công việc đó và buộc nhau theo một luật chung. Nhưng chính quyền cũng không sao chối được nhiệm vụ can thiệp vào.
138. Điều đáng chú ý nữa là giá các nông phẩm, thường chỉ là trả công cho nông dân, mà không phải là bổ túc số vốn họ tung ra.
139. Nói về công ích, Đức Piô XII tuyên bố rất hữu lý trong thông điệp QA rằng:
140. Đành rằng con người cần các nông phẩm để thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của đời sống. Giá phải quy định sao cho bất cứ ai cũng có thể mua được. Nhưng dầu sao định giá quá hạ là một sự bất công rõ rệt. Vì như thế cả một lớp công dân tức là nông dân sẽ phải sống ở một địa vị kinh tế xã hội suy nhược. Không đủ điều kiện vươn mình lên một địa vị sinh hoạt cân xứng, vì thiếu tiền mua vật dụng cần thiết. Thật là một điều phạm đến công ích của quốc gia.
141. Hơn nữa, ở các miền nông thôn, nên thành lập những kho lẫm và những kỹ nghệ tồn trữ biến chế, chuyển vận các nông phẩm, nên củng cố những sáng kiến kinh tế và tiểu công nghệ và nhờ đó mà các gia đình nông thôn mới kiếm được những hoa lợi bổ trợ ngay trong cảnh vực sinh sống và làm việc của họ.
Xí nghiệp canh nông.
142. Ta không sao định được nên tổ chức canh nông như thế nào cho thích hợp. Hoàn cảnh nông thôn thay đổi luôn, tùy theo địa phương trong nước. Phương chi những hoàn cảnh ấy khác hẳn ở từng nước trên thế giới ! Những ai đã có một quan niệm xác đáng về con người và gia đình, một quan niệm căn cứ vào đạo nhân nghĩa hay là chắc chắn hơn căn cứ vào Phúc âm Chúa Kitô, thì họ sẽ lo tổ chức canh nông cho thành một cộng đồng có tính cách nhân loại, và nhất là tính cách gia đình. Trong cộng đồng ấy mọi người liên lạc với nhau và tổ chức luôn việc sản xuất theo công bằng và đạo Phúc âm. Sau đó, họ sẽ tùy theo hoàn cảnh mà tận tâm tìm cách thể hiện lý tưởng cộng đồng nông dân của họ.
143. Nhưng cộng đồng nông dân có tính gia đình chỉ tồn tại và bền vững được khi cộng đồng đó thu hoạch đủ loại hoa lợi cho gia đình vươn mình lên một địa vị sinh hoạt và văn hóa khả quan. Vì thế nông dân cần phải được huấn luyện xứng đáng cho họ am hiểu những kế hoạch tối tân nhất và cho họ hưởng nhờ lời chỉ giáo của những người chuyên môn. Ngoài ra, chính nông dân, nên tổ chức những hội tương trợ, những hợp tác xã, những công đoàn chuyên nghiệp, và tham gia vào những công vụ hành chánh và chính trị.
Nông dân phải ý thức và thể hiện sứ vụ
144. Ta tin rằng: Trong giới canh nông những người phải đứng đầu việc phát triển kinh tế, đề cao nền văn hóa, khiến xã hội tiến bộ, trước hết, chính là nông dân. Họ phải ý thức việc làm của họ cao trọng biết bao ! Họ làm việc ngay giữa thánh đường uy linh của thiên nhiên; họ sống đêm ngày giữa cảnh cây cỏ súc vật, hằng biểu diễn trước mặt họ, sự sống trăm nghìn mầu sắc, luật tự nhiên của mỗi sinh vật mỗi khác nhưng rất điều hòa, chứng minh Đấng Tạo Hóa tài trí lỗi lạc quan phòng muôn vật theo tính theo loài của chúng. Nhờ công việc nông dân, loài người đủ thực phẩm cần dùng và kỹ thuật cũng mỗi ngày thêm nguyên liệu cần thiết.
145. Công việc nông dân đảm nhận lại quý giá nữa, vì họ mượn của các kỹ thuật, của hóa học, của sinh lý học bao sáng kiến mới, nông dân phải luôn tìm cách áp dụng vào nghề nông cho thích hợp với sự tiến triển của khoa học chuyên môn.
Như thế, vẫn chưa kể hết giá trị tuyệt đối của nghề nông. Nghề nông lại đòi hỏi ở nông dân, một trí minh mẫn, am hiểu, những biến đổi của thời tiết, một tài năng đặc biệt để hòa mình vào mọi hoàn cảnh, một lòng tin tưởng sáng suốt ở tương lai, một lòng kính cẩn tôn trọng sứ mệnh tối cần của họ và một tinh thần linh động đầy sáng kiến mới.
Cần có sự đoàn kết và cộng tác.
146. Ta cũng phải nhấn mạnh vào một điều nữa, nghề nông, không kém mọi kỹ thuật sản xuất khác, nên cần phải có sự đoàn kết giữa nông dân, là lẽ sống còn của họ. Nhất là khi được tổ chức thành những nông trại gia đình. Lúc nào nông dân cũng phải ý thức những mối liên hệ ràng buộc họ với nhau và cố gắng thành lập những hội tương trợ và hợp tác xã nông đoàn. Hội đoàn nào cũng cần để hưởng lợi ích tiến bộ khoa học hay để duy trì và bảo vệ thị giá.
Nhờ đó, nông dân mới chen vai sát cánh với các ngành sản xuất khác, sự thường đã được tổ chức tinh xảo. Cũng nhờ đó, mà nông dân mới có ảnh hưởng đến mọi công việc dân sự. Ảnh hưởng đó xứng đáng với trách nhiệm của họ ngày nay, đứng một mình mà nói, tức là nói uổng công, là lên tiếng giữa sa mạc.
147. Không khác gì các công nhân các nghề khi nào nông dân họp thành đoàn thể để ép buộc xã hội nhận quyền lợi của họ hay làm thỏa mãn những điều họ khiếu nại, thì họ phải nhớ tôn trọng luật luân lý, và luật quốc gia. Hay hơn cả là tìm dung hòa quyền lợi với quyền lợi chính thức của giai cấp xã hội khác và lo cho mọi hành động đoàn thể của họ lúc nào cũng quy về công ích quốc gia. Những nông dân có thiện chí với sứ vụ cải thiện xã hội và cảnh vực nông thôn, mà cần phải xin công quyền nâng đỡ, ủng hộ, đó là làm một việc công bằng và hợp lẽ. Nhưng họ còn phải thông cảm những đòi hỏi của công ích, và thành thực góp phần vào việc gây ích lợi chung.
148. Ta thành thực tán tạ những Kitô hữu, con yêu quý của Ta, rải rác khắp năm Châu đã luôn chung sức lập thành những hội tương trợ, hợp tác xã, nông đoàn để đưa nông giới đến một trình độ văn minh, cân xứng và dễ dàng tương đối với địa vị sinh hoạt của mọi giai cấp công dân khác.
149. Nông nghiệp rất có thể cấp cho dân đủ nguyên liệu cần thiết để họ sống xứng đáng chức vị con người, kiện toàn nhân cách, và mở mang trình độ văn hóa của họ. Như thế, họ phải ý thức nông nghiệp là một sứ vụ Chúa uỷ cho họ hướng về một cứu cánh cao siêu, họ phải hiến toàn thân và công việc của họ cho Chúa quan phòng, vốn chỉ dẫn mọi sự theo mục đích cứu chuộc nhân loại. Sau hết, họ phải hướng tâm lên và nâng cao lý tưởng các bạn đồng nghề, để góp phần vào việc văn minh hóa thế giới.
Sự thăng bằng và tiến triển của các miền trong một nước.
150. Dầu trong một dân nước, cũng hay xảy ra trường hợp kinh tế xã hội phát triển. Những công dân không được hưởng lợi đồng đều. Người sống ở miền kinh tế chóng mở mang sẽ được hưởng lợi ích bao nhiêu. Lẽ công bằng và nhân đạo bắt buộc chính quyền san bằng hay giảm sự chênh lệch ấy. Vì thế phải cung cấp cho miền chậm tiến những cơ sở công ích thiết yếu thích thời, hợp với hoàn cảnh từng miền, và trình độ mở mang của quốc gia. Hơn thế nữa, cần có một guồng máy hành chánh thích ứng, một kỹ thuật chặt chẽ qui định các điều kiện làm mướn, tổ chức những trào lưu di dân, và hoạch định những điều luật về giá biểu, lương bổng, thuế má, nông tín, đầu tư và riêng về số vốn đầu tư cần cho các xí nghiệp mở mang những kỹ nghệ phụ thuộc. Phải làm sao cho chính sách nói đây, không những cung cấp đủ việc làm cho công nhân, nhưng còn khích lệ người thầu khoán đua nhau khai thác những nguồn lợi địa phương.
151. Trong vấn đề đó, vai trò chính quyền là chỉ giáo những việc đem lợi ích chung cho toàn dân, tùy theo những đòi hỏi của công ích toàn quốc gia. Nên chính quyền phải lo liệu cho canh nông, kỹ thuật và các công vụ luôn phát triển đồng đều. Mục đích chính quyền phải đạt tới là liệu cho công dân ở miền chậm tiến ý thức rằng, nhờ công việc của họ, những miền kia mới tiến bộ về phương diện kinh tế, văn hóa, và xã hội. Công dân tự hào nhiều hay ít, tùy theo họ ý thức, họ có phần trách nhiệm trong việc mở mang quốc gia.
152. Chính quyền cũng nên dành cho sáng kiến tư nhân trong việc kinh tế xã hội để tìm được thế quân bình cần thiết theo nguyên tắc “tương trợ” chính quyền phải thúc đẩy, ủng hộ tư nhân thể hiện sáng kiến riêng, để tư nhân ý thức rằng nếu họ có thể, họ vẫn đủ điều kiện hoàn thành công việc họ đã bắt đầu.
Sự chênh lệch giữa đất đai và dân cư.
153. Tiện dịp, ta nhắc qua đến một nhận xét, ngày nay thường thấy ở nhiều nơi: tức là sự chênh lệch giữa đất đai và dân cư. Nghĩa là những miền đất rộng dân ít mà những miền đất hẹp dân cư lại đông đúc.
154. Nơi khác đất phì nhiêu nhưng lối canh tác cổ hủ, nên dân không đủ sống, hay đất trung bình nhưng lại được khai thác theo những kỹ thuật tối tân, nên nông phẩm thặng dư. Những tình trạng ấy thường rất có hại cho nền kinh tế quốc gia.
155. Vậy tình nghĩa thiết của nhân loại và tình nghĩa huynh đệ của đạo công giáo bắt buộc các dân nâng đỡ nhau một cách hữu hiệu bằng mọi phương tiện, trước để số vật phẩm, vốn đầu tư và cả số dân di cư được phát triển dễ dàng, và để những mối dị đồng giữa các nước được giảm bớt dần dần. Ta sẽ giãi bày vấn đề đó trong những trang sau.
Hội lương nông quốc tế hữu hiệu.
156. Kèm theo đây, ta thành thực cổ võ tổ chức lương nông quốc tế của liên hiệp quốc đã ân cần lo giúp các dân nước tương trợ lẫn nhau, canh tân nghề nông ở các nước chậm tiến, và tiếp tế cho những dân còn thiếu ăn.
Những mối giao tế giữa các dân tiền tiến và hậu tiến.
157. Trong những vấn đề thời đại ta nêu lên, có lẽ quan trọng nhất là vấn đề giao tế gữa các nước tiền tiến và các nước hậu tiến. Những nước tiền tiến được hưởng mọi tiện nghi, nhưng những nước hậu tiến lại chịu nhiều cực khổ. Vậy loài người ngày nay tuy ở muôn nơi, nhưng đã cùng một ý thức chung là anh chị em một nhà, nên người dân ở các nước giàu sang no ấm không thể nào giữ lòng chai đá trước thân phận của người dân nước nghèo túng thiếu mọi nhu cầu cần thiết, không được hưởng dụng những quyền lợi thiết yếu của con người. Các dân tộc hiện nay, ngày một liên hệ chặt chẽ với nhau hơn đến nỗi không ủng hộ các dân chậm tiến, thì tình trạng kinh tế xã hội quá chênh lệch không thể nào thực hiện được một nền hòa bình vĩnh viễn và phồn thịnh.
Tình nghĩa thiết và lòng bác ái.
158. Là Hiền phụ của toàn thể nhân loại, ta cảm thấy nhiệm vụ của ta là nhắc lại đây những điều kiện ta đã khuyên rõ rệt ở nơi khác rằng:
“Chúng ta hết thảy cùng chịu trách nhiệm giúp đỡ các dân tộc đói kém. Nên ta lên tiếng đánh thức toàn thể nhân loại, nói chung, từng người và nhất là người sung túc nói riêng phải xác nhận trách nhiệm của họ.”
159. Đã là những thành phần sống động của Nhiệm Thể Chúa Kitô, thì các Kitô hữu phải ý thức trách nhiệm ấy, một cách linh động hơn. Điều đó quá hiển nhiên và Giáo hội cũng không ngừng nhấn mạnh tới. Các kitô hữu buộc ngặt phải giúp kẻ thiếu thốn. Thánh Gioan viết: (1Ga 3,16-17)
160. Vì thế, tôi rất hân hạnh thấy các dân nước đã tổ chức được một hệ thống sản xuất tối tân, đồng lòng ủng hộ các dân chậm tiến về mặt kinh tế, để họ cải tiến dân sinh một cách dễ dàng hơn.
Những sự cứu tế khẩn cấp ở nhiều quốc gia.
161. Ai cũng thừa biết bây giờ ở nhiều quốc gia, thực phẩm nhất là thổ sản dư thừa, trong khi bao quốc gia khác chịu cảnh đói khát, cực khổ. Vậy công lý và đạo nghĩa yêu cầu các nước sung túc phải nâng đỡ các nước bần cùng. Tiêu hủy và phung phá những sản phẩm cần cho bao người khác đủ sống, đó là phạm đến công bằng.
162. Sản xuất thực phẩm và nhất là những nông sản quá mức tiêu thụ trong nước nhiều khi gây hại cho các công nhân khác với tầng lớp nông dân. Nhưng không phải vì thế mà các dân nước sung túc phải hạn chế sự sản xuất nông sản. Có rất nhiều trường hợp bắt buộc họ phải sản xuất rồi cung cấp cho các dân thiếu thốn và đói kém. Nếu làm như thế, là hại cho một số công nhân trong nước, chính quyền phải san sẻ những thiệt hại đó cho mọi công dân cùng chịu chung.
Viện trợ và cộng tác cho các dân chậm tiến được tiến hóa đồng đều.
163. Cứu trợ các nước chậm tiến như thế, nhiều khi sẽ không đủ hiệu lực để loại trừ những nguyên do tự nhiên gây nên cảnh bần cùng và đói khát. Thường tình cảnh thê thảm ấy chỉ do một nền kinh tế cổ hủ thô sơ. Giải pháp hiệu lực là thử mọi đường lối. huấn luyện toàn dân về các nghề nghiệp kỹ thuật và khoa học mới, rồi cấp vốn kinh doanh để họ mở mang nền kinh tế của họ theo những đường lối tối tân của đời ta.
164. Ta biết rằng trong những năm vừa qua nhân loại đã ý thức nhiều. Đa số người ta đã lưu tâm đến trọng trách phải cứu trợ các dân nước, quyền lợi ít, khí cụ sản xuất còn thiếu, để giúp tiến hóa mau hơn về mặt kinh tế xã hội.
165. Để thực hiện cao vọng đó, nơi nào cũng có những tổ chức quốc tế hay quốc gia, những hội đoàn công và tư, để cứu trợ các dân chậm tiến một cách quảng đại hơn, cấp cho họ những phương tiện khoa học chuyên môn hữu hiệu hơn. Thanh niên từng trăm từng ngàn được mọi sự dễ dàng sang học ở các Đại học đường đã thành lập tại các nước tiền tiến, và nhờ đó được huấn luyện về khoa học, kỹ thuật đúng theo nhu cầu của thời đại. Tiện dịp đây, ta cũng ca ngợi những hành động bác ái này cho xứng với công nghiệp của họ. Nhưng ta ước mong các nước sung túc sẽ cố gắng hơn nữa để số người mới rảo bước trên đường khoa học, kỹ thuật kinh tế mỗi ngày một đông hơn.
166. Về phương diện này, giáo mục buộc ta khuyên thêm đôi lời:
167. Các nước còn đang ở trong thời kỳ nền kinh tế phôi thai, cần khôn ngoan rút kinh nghiệm nơi các nước đã thịnh vượng vì những cố gắng lâu năm trước
168. Phân chia của cách công bằng:
Tăng gia sản xuất mãi cũng cần, nhưng cần hơn là phân phối sản phẩm cho công dân hưởng lợi cho đồng đều, đó là luật công bằng đòi hỏi. Phải cố gắng cho sự phát triển kinh tế đi song song với những tiến bộ của xã hội và bảo đảm nền thăng tiến sao cho từ từ tương đối giữa ba khía cạnh kinh tế: canh nông, kỹ thuật và công vụ.
169. Tôn trọng đặc điểm cá tính của từng dân tộc. Một điều quá hiển nhiên là các quốc gia đang tìm mở mang kinh tế thường tỏ ra có những đặc điểm cá tính riêng, do vị trí địa dư, tập tục cổ kính của tiền nhân, và tính tình riêng biệt.
170. Bởi thế, các nước có nền kinh tế phong phú, mà lại có thiện chí muốn viện trợ cho các nước khác phải đặc biệt tôn trọng cá tính của họ, vốn kết tinh nên quốc hồn quốc túy của từng dân tộc. Nên các nước viện trợ đừng bắt các dân chậm tiến phải mô phỏng theo nếp sống của mình.
171. Chính trị không vụ lợi:
Lại nữa, các nước tiền tiến viện trợ cho các nước chậm tiến phải hết sức đề phòng để khỏi lấy cớ viện trợ mà biến hóa chính thể của nước đó theo lợi ích riêng của mình rồi tìm cách xâm chiếm chinh phục họ.
172. Âm mưu như vậy, ai cũng công nhận rằng, viện trợ chỉ là một đường lối đưa đến chế độ thuộc địa xưa. Danh từ viện trợ nghe rất kêu và đáng kính biết bao ! Nhưng vì trong âm thầm mưu kế như trên, chỉ là tìm cách tái lập chế độ thuộc địa mới đã bị các dân tộc đánh đổ. Làm thế, mối giao tế giữa các quốc gia sẽ lâm nguy, hòa bình thế giới sẽ bị lung lay.
173. Bởi thế nên đạo nghĩa và công bằng đòi ở các nước đứng viện trợ về kỹ thuật và tài chánh phải hết sức vị tha và gạt bỏ mọi chủ trương thống trị mà chỉ nhằm mục đích là giúp các nước chậm tiến chóng đến ngày đủ điều kiện tự mình phát huy nền kinh tế xã hội của họ.
174. Nhờ đó, các dân tộc mới thành một đại đồng quốc tế mở rộng cho từng quốc gia ý thức nghĩa vụ và quyền lợi riêng để thành thực góp phần vào công ích quốc tế.
175. Phân biệt giá trị mỗi sự vật:
Hẳn rằng khoa học và kỹ thuật tiến triển, nền kinh tế phồn thịnh tất nhiên trình độ văn minh của các dân tộc cũng được tăng lên nhiều. Nhưng dầu quý hóa bao nhiêu, những vật phẩm ấy cũng không đáng gọi là những vật phẩm có giá trị tuyệt đối, nhưng chỉ là đường lối tiến tới hạnh phúc tuyệt đối ai cũng mong ước.
176. Ta rất ưu sầu khi thấy ngay ở các nước tiền tiến bao người không đủ sáng suốt phân biệt giá trị riêng của mỗi sự vật. Nhưng của quý phần hồn đều bị coi rẻ, bỏ quên, phủ nhận. Còn những sáng kiến của khoa học và kỹ thuật, những tiến bộ của kinh tế, hạnh phúc vật chất hứa hẹn được tôn kính như thể đó là cứu cánh đời sống con người. Bởi thế, ẩn khuất dưới những cố gắng viện trợ cho các nước chậm tiến, có bao tệ đoan khốc hại. Nhưng đa số nước chậm tiến vẫn giữ nguyên những lập trường luân lý cổ kính, và lấy lương tâm làm luật mực cho mọi hành động công cộng hay tư nhân của họ.
177. Vì thế, ai động đến những truyền thống cổ kính đó là nhúng tay vào tội ác đáng bị kết án. Nên mọi người phải tôn trọng lòng đạo của họ, và cố gắng làm cho thêm phần tinh tế, hoàn hảo hơn, vì căn bản bất khả xâm phạm của một nền văn minh chính đáng là lòng đạo đức sáng suốt nhận thực giá trị của mỗi sự vật.
Giáo hội tôn trọng cá tính riêng của từng dân.
178. Giáo hội nói riêng, theo luật bao quát của thiên định cho toàn thể nhân loại, và Giáo hội ở mọi nơi đưa cánh ôm ấp mọi dân tộc.
179. Lịch sử và kinh nghiệm dạy rằng: Các dân tộc không thể nào gia nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô, mà không hưởng lợi gì về kinh tế và xã hội. Thực ra, không ai xưng mình là Kitô hữu mà không thấy mình bị bó buộc phải cải thiện mọi tổ chức dân sự tùy theo tài sức. Những tổ chức đó được cải thiện thì nhân cách con người mới được tôn trọng, mọi trở lực ngăn cản việc làm mới được loại trừ, và tất cả mọi sự đưa đến lẽ phải và đạo nghĩa mới được ủng hộ.
180. Hơn thế nữa, Giáo hội thâm nhập vào trong tận cốt tủy của mỗi dân tộc không phải chỉ là một ngoại lực, và cũng không nhận mình là một tổ chức chỉ ảnh hưởng đến họ ở bên ngoài. Nhưng Giáo hội có mặt ở đâu thì ở đó có con người thấy mình vừa tái sinh, vừa hoàn sinh trong Chúa Kitô hầu như từ ở trong lòng. Thực ra ai tái sinh hay hoàn sinh trong Chúa Kitô sẽ không bao giờ cảm thấy mình bị áp lực nào bên ngoài ép buộc. Người ấy thấy mình được giải phóng từ trong nội tâm, như mình mới được tư do hướng về với Chúa, và được thư thả mong mỏi sự chân thiện mỹ. Nhờ mình hóa theo và thực hành những sự cao quý ấy, thì nhân cách hóa mình mình mới kiện toàn và hoàn hảo.
181. Đức tiên Giáo hoàng Piô XII đã minh giải điều ấy rằng Giáo hội Chúa Kitô, trung thành kế nghiệp Thiên Chúa khôn ngoan chỉ giáo cho nhân loại. Giáo hội không thể nào có dã tâm đả kích hay khinh thường những đặc điểm cá tính của từng dân tộc kính cẩn duy trì và rất tự hào tìm phát triển như một di sản quý giá. Giáo hội chỉ chủ trương thống nhất nhân loại về mặt siêu nhiên, trong một tình nghĩa huynh đệ rộng như trời bể, ai cũng phải thấy và quyết thể hiện, mà không phải chỉ mong đồng hóa các dân tộc trong một đời sống giống nhau, nông cạn, bề ngoài làm cho hao mòn sinh lực của từng nước. Tất cả những khuynh hướng, những mối lo đã quy về mục đích làm phát triển một cách đồng đều và khôn ngoan, những sinh lực riêng biệt, những đặc điểm cá tính đã đâm rễ sâu vào quốc hồn quốc túy của từng dân tộc, nếu không có gì trái ngược với những nghĩa vụ căn bản loài người phải chịu nhận vì cùng một nguồn gốc và một cứu cánh thì được Giáo hội hết sức hoan nghênh và mong có ngày được thỏa mãn với cả một lòng mẫu tử thành thực.
Kitô hữu góp công vào sự phát triển quốc gia.
182. Ta hân hạnh nhận thấy những công dân Kitô hữu các nước chậm tiến không chịu thua kém ai trong việc góp công vào sự phát triển kinh tế xã hội ở nước họ.
183. Mặt khác, ở những nước tiến triển, giáo dân không ngừng đua nhau thúc đẩy nước họ tăng gia những công cuộc viện trợ cho các dân đang ở trong cảnh cơ cực, chóng được mở mang về kinh tế và xã hội. Về phương diện đó ta đặc biệt tán dương những sự giúp đỡ thanh niên Á Phi, mỗi năm một nhiều, cho họ sang du học trong các nước Âu Mỹ để được huấn luyện sâu rộng và riêng về kỹ thuật. Ta cũng rất tán thành những cố gắng huấn luyện cho các nước ấy đủ chuyên viên và cán bộ sành sỏi đủ khả năng giúp họ phát triển kinh tế và xã hội.
184. Nói tóm lại, ta thành thực và ưu ái ghi ân, khích lệ tất cả các Kitô hữu, con yêu quý của ta, dầu rải rác khắp mọi nơi, nhưng vẫn tận tụy cộng tác vào những tiến bộ của các dân tộc và củng cố nền văn minh thế giới. Họ biện chứng cho Giáo hội có sẵn một nguồn sinh lực vĩnh cửu và vô cùng hữu hiệu.
Tình trạng tăng gia nhân khẩu và mở mang kinh tế.
185. Đã từ mấy năm nay, cả thế giới thắc mắc tự hỏi rằng: Làm thế nào để giữ thế quân bình, giữa nền kinh tế, vốn phải cấp đủ kế sinh nhai cho nhân loại, và số nhân khẩu càng tăng lên mãi, hoặc trong phạm vi quốc tế hoặc trong phạm vi riêng của những quốc gia kém mở mang.
186. Trong phạm vi quốc tế, không thiếu những người nhận rằng: theo những sở thống kê đáng tin cậy, sẽ không còn mấy chục năm nữa, nhân loại sẽ tăng lên cách lạ theo nền kinh tế thì dù phát triển mạnh cũng không sao tiến theo cùng đà với số người tăng lên. Họ kết luận rằng, không hạn chế sự sinh sản của nhân loại, thì một ngày gần đây, nền kinh tế và số nhân khẩu sẽ mất hẳn thăng bằng.
187. Lược qua mấy sổ thống kê của các nước kém mở mang, ai cũng phải nhận rằng: nhờ những phương kế vệ sinh và y tế được phổ biến mau chóng, số các trẻ em chết yểu sẽ giảm đi nhiều, đời sống nhân dân, xét trung bình đã được kéo dài hơn. Những nơi số sinh cao thì vẫn cao, và chắc sẽ giữ mãi như thế, ít thay đổi trong nhiều năm nữa. Nhưng trong khi số sinh trổi vượt hơn số tử, khiến con người thêm đông, nền kinh tế không thể tăng lên kịp. Như thế ở các nước đó ta không có hy vọng nâng cao mực sống nhân dân. Trái lại, vẫn sút kém. Do đó, nhiều người kết luận rằng: không còn phương pháp nào tránh được tình trạng cực đoan ngoài phương pháp ngăn cản hay hạn chế việc sinh sản của con người.
Vấn đề này được nêu lên trong phạm vi quốc tế.
188. Thực ra, trong phạm vi quốc tế đem so sánh số nhân khẩu với những nguồn lợi loài người đã có sẵn có thể dùng được, ta không thấy dấu hiệu nào đáng lo ngại. Tương lai gần đây cũng không gây thắc mắc là bao. Những lý lẽ người ta đem trình để bắt con người hạn chế sinh sản, một phần gây những cuộc tranh luận nên không thể căn cứ vào đó mà kết luận chắc chắn phải hạn chế sự sinh sản để loài người khỏi lâm nguy.
189. Ngoài ra, Chúa khoan nhân và khôn ngoan tuyệt đối đã dựng nên thiên nhiên đầy tài nguyên vô tận, loài người lại được dựng sinh có trí óc lỗi lạc, nhờ đó con người cải hóa những tài nguyên của thiên nhiên để mình đủ thỏa mãn nhu cầu hồn xác không bao giờ thiếu. Như thế, ta không thể giải quyết vấn đề theo những đường lối trái ngược với luân lý Chúa an bài và phạm đến nguồn sinh sản tiềm tàng trong con người. Trái lại nhờ khoa học chuyên môn, con người luôn sáng kiến và các dân tộc đua nhau khám phá ra những tiềm lực của thiên nhiên và tìm cách chinh phục muôn vật trong vũ trụ ngày một nhiều hơn. Những tiến bộ được thể hiện về mặt đó, là một mối hy vọng vô bờ bến, hằng bảo đảm tương lai.
Đặt vấn đề trong những nước chậm tiến.
190. Tuy nhiên, ta thừa biết rằng: có những địa phương và những nước nguồn lợi quá ít, nên vấn đề nhân khẩu rất phức tạp nhiều khi những dân nước đó gặp bao nhiêu trở ngại. Nền kinh tế xã hội chưa được phát triển để dân số càng ngày càng đông tìm được nơi họ sinh sống những phương tiện sinh nhai cân xứng đầy đủ. Đó cũng là do các quốc gia thiếu đoàn kết nên chưa ý thức được mối liên hệ tự nhiên ràng buộc họ lại với nhau.
191. Nhưng dù sao ta cũng công nhiên tuyên bố rằng: Không ai được đặt vấn đề và tìm giải pháp ở những cách thức hay ở những phương kế nào tự nhiên trái với phẩm giá đặc biệt của con người, theo quan niệm của phe duy vật, chỉ nhận con người là một con vật tinh xảo hơn, và mạng sống những chỉ toàn là vật chất như muôn vật chất khác trong thiên nhiên.
192. Vấn đề này không thể giải quyết được, cho từng cá nhân và cho cả xã hội, nếu sự tiến bộ của kinh tế xã hội coi thường những giá trị chân chính của nhân loại. Vậy điều đáng tôn trọng hơn cả là nhân phẩm của toàn thể nhân loại nói chung, và mạng sống của từng cá nhân nói riêng. Ngoài ra, vấn đề này chỉ có thể giải quyết trong sự hợp tác của các dân tộc trong phạm vi quốc tế. Vì có sự hợp tác này, các vật phẩm cần thiết mới được lưu thông đồng đều, nhất là những kiến thức, số vốn, và chuyên viên.
Luật lệ truyền sinh.
193. Ở đây, ta long trọng tuyên bố lại rằng: giữa nhân loại sự sống chỉ di truyền được trong và nhờ gia đình. Gia đình lại căn cứ vào một cuộc hôn nhân đối với toàn thể nhân loại là một cuộc đơn và vĩnh hôn, đối với các kinh tế là một bí tích cao thượng. Việc truyền sinh là một việc ý thức và cố tình, nên việc đó phải tuân theo luật lệ khôn ngoan của Chúa, là luật bất di bất dịch và bất khả xâm phạm, người nào cũng phải nhìn nhận và tuân giữ. Như thế dầu có những phương pháp và những cách thức người ta có thể áp dụng được vào việc truyền sinh của súc vật hay cây cối, cũng không ai được đem áp dụng vào sự truyền sinh của nhân loại.
194. Mạng sống nhân loại không những chỉ phát nguồn ở nơi con người, nhưng còn do sự tạo thành của Thiên Chúa. Nên ai cũng phải nhận thực là một việc thánh. Ai phạm đến là lỗi luật Chúa, phạm đến uy quyền của Chúa, làm nhục bản thân mình và khiến loài người mất cả giá trị riêng. Hơn thế nữa, kẻ ấy làm suy nhược cả khối sinh lực của quốc gia nữa.
195. Như thế, việc quan hệ hơn cả là phải huấn luyện thế hệ thanh niên mới, không những về phương diện văn hóa tôn giáo, đó là phận sự đòi hỏi người làm cha mẹ nhưng còn huấn luyện họ và những trọng trách họ phải ý thức, và đảm nhận suốt trong đời sống, nhất là việc lập gia đình, sinh trưởng và nuôi dạy con cái. Tuổi thanh niên phải đặt tin tưởng ở Chúa quan phòng, mà lại quyết định chịu đựng mọi sự vất vả hy sinh, tự nhiên có kèm theo sứ vụ cộng tác với Chúa trong việc sinh sản và giáo dục con cái để hoàn tất sứ vụ cao siêu đó. Những ơn phúc và những huấn lệnh cao siêu của Chúa Kitô được Giáo hội nâng đỡ bằng những huấn lệnh và ơn phúc siêu nhiên vẫn chứa chan nơi Người. Không kể những lý do khác, ta nói được chính vì lý do ta mới nhắc đến, mà Giáo hội có quyền đòi hỏi tự do thể hiện sứ mệnh của mình.
Mục đích các thổ sản là để thỏa mãn nhu cầu của nhân loại.
196. Sách Sáng thế viết: “Loài người nguyên thủy được Chúa dựng nên và ban hai huấn lệnh bổ quyết nhau: Hãy sinh sản cho nhiều. Hãy làn tràn khắp mặt đất và chế ngự cả hoàn cầu”.
197. Huấn lệnh thứ hai không bảo tiêu diệt mọi thổ sản vật chất, nhưng là: chinh phục để nhân loại có đủ các thứ cần thiết.
198. Vì thế, ta rất lo ngại khi thấy đời ta đầy những mâu thuẫn khốc hại: một đàng người ta diễn lại cảnh thê thảm của nhân loại sắp bị tàn phá vì nạn đói. Mặt khác nhờ những phát minh của khoa học, những tiến bộ của kỹ thuật, những tài nguyên kinh tế dồi dào, người ta đua nhau sử dụng để chế tạo những khí cụ phá hoại giết chóc nhân loại một cách kinh khủng.
199. Chúa quan phòng đã ban cho nhân loại đủ phương tiện để ai cũng gánh được trọng trách dưỡng sinh con cái và giữ nguyên nhân phẩm của mình. Nhưng khi con người lạc trí, lòng gian dùng những phương tiện nói trên một cách trái ngược với tự nhiên, cứu cánh xã hội, và ý tiền định của Chúa, thì nhân loại không còn phương pháp nào nuôi thân và truyền nòi giống xứng đáng với con người nữa.
Sự cộng tác quốc tế.
Vấn đề nhân sinh ngày nay là vấn đề quốc tế.
200. Khoa học và kỹ thuật tiến bộ. Nhưng mối giao tế giữa các nước trong mọi phạm vi xã hội ngày một chặt chẽ, thân mật hơn. Như thế các nước liên hệ nhiều hơn.
201. Cũng vì thế mà bất cứ một vấn đề hệ trọng nào hoặc trong phạm vi khoa học kỹ thuật kinh tế xã hội, hay trong phạm vi chính trị văn hóa, cũng không giải quyết riêng giữa mấy quốc gia với nhau nhưng phải có nhiều nước liên hệ hay cả thế giới tham gia mới giải quyết thỏa đáng được.
202. Dù những quốc gia có nền văn hóa và giáo dục cao độ, công dân đông và chuyên môn nền kinh tế dồi dào, nguồn lợi phong phú, diện tích rộng lớn, cũng không thể giải quyết một mình những vấn đề trọng đại ấy một cách thích đáng được. Các quốc gia cần phải bổ khuyết nhau. Nên không quốc gia nào mưu lợi ích riêng, nếu quốc gia ấy đồng thời không mưu ích chung cho các quốc gia khác. Chính những đòi hỏi của một đời sống văn minh, bắt buộc các nước ngày nay phải hòa hợp và trợ giúp nhau.
Một trở lực khó vượt qua: lòng ngờ vực nhau.
203. Điều đó mỗi người và mỗi quốc gia đều xác nhận. Đó là những nguyện vọng của dân chúng nhưng hầu như không ai, nhất là không nhà cầm quyền nào đủ sức làm thỏa mãn được. Không phải họ thiếu phương tiện khoa học kỹ thuật hay kinh tế thích nghi nhưng họ ngờ vực nhau. Thật ra, con người nói riêng, các chính phủ nói chung đều sợ nhau. Các quốc gia sợ nhau âm mưu làm bá chủ và chờ đón cơ hội thuận tiện để thi hành thủ đoạn. Vì thế, các nước chuẩn bị quốc phòng, sắm võ khí với mục đích cảnh cáo đối phương không nên gây hấn.
204. Tình trạng đó đem đến hậu quả là bao nhiêu nhân lực và tài nguyên được các dân tộc sử dụng để chuẩn bị chiến tranh, là một thiệt hại lớn lao cho xã hội không đem đến lợi ích gì. Loài người xét theo từng cá nhân và từng quốc gia đều sống trong lo sợ không dám làm những việc trọng đại cần thiết.
Những quan niệm sinh hoạt mâu thuẫn nhau.
205. Sở dĩ nhân loại sống trong tình trạng đó vì nhân loại và riêng các nhà giữ vận mệnh quốc gia hành động theo những quan niệm tương phản nhau trong đời sống. Bao người quả quyết rằng: trổi vượt thời thế hoàn cảnh để hướng dẫn nhân loại nhưng không có luật lệ cần thiết, phổ thông, buộc chung mọi người như nhau về chân lý và công bằng. Vì chối luật công bằng duy nhất buộc chung mọi người, không còn ai hòa hiệp với nhau một cách an toàn trong bất cứ vấn đề nào.
206. Phải nhận rằng những danh từ “công bằng” hay những đòi hỏi của công bằng luôn vang dội trên môi miệng mỗi người, nhưng không ai hiểu như ai, nhiều khi mỗi người hiểu theo một ý khác hẳn nhau. Như thế dù các nhà cầm quyền hết sức cổ võ mọi người tôn trọng công bằng, hãy lo tuân giữ những đòi hỏi của công bằng, họ cũng không đồng ý với nhau, nhiều khi họ lại gây dịp cho những cuộc tranh luận bùng nổ. Như thế để bảo vệ quyền lợi và tài sản, người ta chỉ còn phương pháp là dùng võ lực. Nhưng võ lực sẽ nảy sinh tai họa.
Ai cũng phải nhận một pháp luật và nguồn chân lý buộc chung mọi người.
207. Vậy các quốc gia không thể nào tín nhiệm nhau một cách vĩnh viễn và mỗi ngày một tăng cường hơn, nếu họ không xác nhận và quyết thi hành những luật lệ căn bản của chân lý và công bằng.
208. Trật tự luân lý chỉ có một căn cứ vĩnh viễn là Thiên Chúa, tách khỏi Thiên Chúa trật tự luân lý sẽ tan rã. Con người không phải chỉ là một thể xác nhưng còn là một thần trí ý thức tự do. Vì thế, con người căn cứ vào tôn giáo, một nội lực mãnh liệt hơn mọi áp lực từ bên ngoài; hữu hiệu hơn mọi tư lợi riêng để giải quyết những vấn đề đời sống cá nhân và xã hội trong phạm vi quốc gia, và cả cộng đồng xã hội quốc tế.
209. Ngày nay không thiếu người căn cứ vào những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật quả quyết rằng con người tự nhiên đủ sức vươn mình lên một trình độ văn minh tuyệt đối, không cần có Thiên Chúa phù lực. Sự thật trái lại. Khoa học và kỹ thuật càng tiến triển lại càng nêu nhiều vấn đề quốc tế, không ai giải quyết được nếu họ không chịu nhận uy quyền của Thiên Chúa, vừa là Đấng tạo Hóa và bá chủ hoàn cầu.
210. Chính những cuộc phát minh của khoa học mở rộng trước mặt người ta một chân trời mênh mông vô tận. Thấy thế không thiếu người có thiện chí thành thực nhận rằng các nhà toán học khám phá ra được mọi hiện tượng trong thiên nhiên, nhưng họ không sao thấu hiểu bản tính và sự biến chuyển của muôn vật. Nhiều nhất họ chỉ đề nghị được một vài giả thuyết hữu lý. Mãi đến khi con người mục kích rõ ràng rồi họ mới nhận khối lượng khổng lồ kỹ thuật máy móc họ đang sử dụng vào trong các công việc xây dựng, tàn phá, mưu ích, phá hoại cho các dân, khi đó họ mới nhận loài người phải tôn trọng tinh thần và luân lý hơn mọi nguồn lực khác. Muốn cho khoa học và kỹ thuật dẫn đưa nhân loại đến chỗ văn minh thực thụ mà không đưa đến những thiệt hại khác phải triệt để áp dụng các luật định đó.
211. Mặt khác những quốc gia nào dân chúng vươn mình lên địa vị sinh hoạt cao thượng mọi người được thỏa mãn các nhu cầu, họ sẽ không mơ tưởng địa đàng nào nữa. Nhưng nếu họ ngày càng ý thức con người có nhân cách đặc biệt và kèm theo nhân cách đó lại có những quyền lợi chung, những quyền lợi bất khả xâm phạm. Nên họ sẽ dùng mọi phương thế để đối xử với nhau một cách công bằng và xứng đáng phẩm giá con người hơn. Như thế là họ nhận sự bất lực của từng cá nhân, và hơn bao giờ hết, họ đoàn kết với nhau để đề cao tinh thần hơn vật chất. Nhờ dấu đó ta rất có thể hy vọng ngày mỗi người và mỗi quốc gia thành thực hợp tác với nhau để bắt đầu cuộc tương giao chân thành và hữu hiệu.
PHẦN THỨ TƯ
IV. HUẤN TỪ MỤC VỤ VỀ CHÂN LÝ CÔNG BẰNG VÀ BÁC ÁI
212. Ngày nay cũng như hồi xưa, những sự phát minh của khoa học và kỹ thuật ảnh hưởng rất nhiều đến những mối giao tế trong xã hội. Vì thế ai cũng phải lo cho khoa học và nghệ thuật thăng tiến mãi để cân xứng với chức vị con người hơn, không những trong từng quốc gia nhưng trong cả đời sống quốc tế nữa.
Những học thuyết sai lạc hay thiếu sót
213. Để bước tới mục đích ấy, người ta đã nghĩ ra bao học thuyết khác nhau. Học thuyết này mới phát xuất đã tiêu tan ngay như sương bình minh. Học thuyết kia vừa phát xuất đã phải thay đổi tận gốc rễ. Những học thuyết khác dù đã có những hấp dẫn rất mạnh đối với nhân loại nhưng dân chúng ngày bỏ đi càng nhiều vì những học thuyết ấy không tìm hiểu sâu rộng và toàn diện về con người. Nhân tính con người còn bao khuyết điểm mà những học thuyết trên hầu như không quan tâm tới, như bệnh tật và sự đau khổ, hệ thống kinh tế xã hội nào dù hoàn hảo tới đâu cũng không sửa chữa hết được. Ngoại trừ loài người tự nhiên có một tinh thần tôn giáo sâu rộng và mãnh liệt, không một lực lượng nào trên trần gian có thể tiễu trừ hay vùi lấp đi được.
214. Đời ta bây giờ có một lỗi lầm rất lớn khi tuyên bố tinh thần tôn giáo vốn do Tạo Hóa ghi sâu vào nhân tâm, chỉ là một ảo tưởng, một mê tín, nên phải tiễu trừ ra khỏi lòng người vì đó chỉ là hành động lỗi thời ngăn cản nền văn minh tiến bộ. Trái lại, tinh thần tôn giáo cao quý phát nguyên từ đáy lòng người là một tang chứng con người bởi Thiên Chúa dựng nên và hướng về với Chúa, theo lời thánh Augustino đã nói: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con để chúng con quy hướng về Chúa, nên lòng chúng con lo âu, bồn chồn mãi cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa”.
Thiên Chúa căn bản cần thiết của mọi tổ chức công bằng.
215. Vì thế, dù khoa học chuyên môn tiến triển mãi, dầu nền kinh tế xã hội được tổ chức tinh xảo, chỉ khi nào loài người ý thức được rằng họ được Chúa dựng nên và được tôn làm con Chúa, vừa là nguồn gốc vừa là cứu cánh của muôn vật, khi đó thế giới mới sống công bằng và hòa bình được. Loài người lạc xa Thiên Chúa nên mất luôn cả nhân tính cao quý đối với mình và đối với anh chị em đồng loại. Những mối tương giao giữa nhân loại đều do từng người ý thức mình tùng phục và hướng về Thiên Chúa là nguồn chân lý công bằng và bác ái độc nhất hay không.
216. Một điều ai cũng nhận thức là hiện nay trong bao quốc gia văn minh công giáo cổ kính, các kitô hữu, anh chị em và con cái của ta, bị bách hại khổ sở từ lâu năm. Cái mâu thuẫn giữa tinh thần ưu thắng của kẻ bị bách hại, và sự gian ác của những người bách hại, dầu không đủ sức hấp dẫn những người chủ mưu hồi tâm lại, nhưng cũng khiến cho bao người có thiện chí phải kinh ngạc suy nghĩ.
217. Đời ta điên cuồng hết chỗ nói vì đang khi xây dựng trật tự xã hội vật chất trên những nền tảng bền vững và phong phú, nó cũng mưu trí loại trừ Thiên Chúa cao cả là căn bản độc nhất uy quyền. Nó lại đề cao phẩm chức nhân loại cao đến đỉnh trời, nhưng đồng thời cũng tìm diệt trừ nguồn gốc tự nhiên phát sinh và nuôi dưỡng lòng người, bằng cách đè nén và nếu có thể giập tắt luôn khuynh hướng cao siêu vốn hướng dẫn nhân loại về với Thiên Chúa. Những tai họa mới xảy ra, đã đánh tan bao nhiêu mối hy vọng rực rỡ, đã gây bao khốc hại cũng chứng minh lời Kinh Thánh đã chép: “Nếu chính Chúa không cất nhà, thì thợ xây đều làm việc vô ích”.
Ý nghĩa và giá trị học thuyết xã hội công giáo.
218. Học thuyết xã hội công giáo có một giá trị đặc biệt muôn đời là điều không ai hồ nghi.
219. Nguyên tắc thiết yếu, là con người vừa là nền tảng và là nguyên nhân, cũng là cứu cánh của mọi tổ chức xã hội. Con người có tính cách xã hội, và đã được tôn lên địa vị siêu nhiên tức là trổi vượt mọi địa vị tự nhiên đã chiếm được.
220.Căn cứ vào nguyên tắc thiết yếu đó, là nguyên tắc diễn tả chức vị cao thượng của con người. Giáo hội nhất là trong thế kỷ vừa qua đã soạn thảo một học thuyết xã hội nhờ sự cộng tác của các linh mục và giáo dân chuyên nghiệp. Trong học thuyết đó, Giáo hội quy định rõ ràng những mối tương giao giữa nhân loại phải tổ chức theo những luật lệ phổ thông nào. Những luật lệ này trên thực tế, vừa rất thích hợp với đủ mọi tình trạng xã hội, và những đặc điểm thời đại của ta, nên ai cũng chấp nhận được.
221. Nhưng không bao giờ bằng lúc này, học thuyết đó phải được phổ biến tìm hiểu sâu rộng, và thể hiện trong đời sống dưới những hình thức và bằng những phương thế hữu hiệu, do thời đại, hoàn cảnh cho phép hay đòi hỏi. Đó là một việc vĩ đại, ta tha thiết yêu cầu toàn thể giáo dân, và tất cả những người có thiện chí hãy tận tâm hiệp lực tham gia.
Học hỏi và phổ biến học thuyết xã hội công giáo.
222. Trước hết ta tuyên bố rằng: học thuyết xã hội công giáo trình bày đây là một thành phần thiết yếu của toàn bộ giáo lý mà Giáo hội luôn rao giảng về đời sống con người.
223. Nên ta ước mong học thuyết xã hội này được toàn thể giáo dân học hiểu ngày một sâu rộng hơn. Ta lại yêu cầu các trường công giáo trong mọi cấp bậc, và nhất là các chủng viện hãy biên ghi học thuyết xã hội công giáo trong chương trình học tập bắt buộc của họ. Thực ra ta đã được biết, có rất nhiều học đường công giáo đã giảng dạy học thuyết đó, mà lại giảng dạy rất chu đáo từ lâu năm. Ta cũng ước mong được thấy học thuyết xã hội công giáo, nhập vào chương trình giáo lý của các giáo khu, và các hội đoàn tông đồ giáo dân rồi nhờ phương pháp tối tân: nhật báo, nguyệt san, sách vở thường thức hay nghiên cứu khoa học, đài phát thanh và vô tuyến truyền hình.
224. Thiết tưởng các đoàn thể giáo dân, có thể được hợp tác vào các việc phổ biến học thuyết xã hội công giáo này một cách rất hiệu nghiệm, nếu họ không những tìm hiểu áp dụng trong đời sống riêng của họ mà còn khôn khéo tận tâm tìm dịp giải nghĩa cho các anh em bạn hữu nữa.
225. Anh em phải tin tưởng rằng giới thiệu học thuyết xã hội công giáo là phương pháp hiệu lực để giải quyết mọi vấn đề của thời đại cũng là minh chứng học thuyết ấy chân thực và hiệu nghiệm. Như thế anh em rất có thể hấp dẫn luôn cả những người xưa nay đã bài bác học thuyết xã hội công giáo vì họ chưa hiểu rõ, và có lẽ còn chiếu vào tâm trí họ một vài tia sáng cứu chuộc.
Một nền giáo dục hòa hợp với học thuyết xã hội công giáo.
226. Một học thuyết xã hội, phải trình bày trước mặt người ta, nhưng cũng phải thể hiện nữa. Áp dụng học thuyết xã hội công giáo điều đó càng rõ ràng hơn, vì học thuyết đó có chân lý làm nguồn sáng, công bằng làm cứu cánh và bác ái làm động lực.
227. Như thế, giáo dân không những phải học hiểu học thuyết xã hội của Giáo hội mà phải được giáo dục theo học thuyết ấy nữa.
228. Một nền giáo dục phải bao quát tất cả mọi nghĩa vụ của con người. Như thế những kitô hữu được giáo dục chu đáo, phải ăn ở đúng theo học thuyết xã hội công giáo trong cả phạm vi kinh tế và xã hội.
229. Nhưng trong thực hành bất cứ lý thuyết nào cũng là khó. Phương chi thực hành học thuyết xã hội công giáo còn khó hơn nữa, vì nhiều lý do: Lòng người có tính ích kỷ, xã hội hiện tại chịu ảnh hưởng duy vật chủ nghĩa, còn trong cơ hội cụ thể, nhiều khi chúng ta khó minh xác điều nào hợp lý điều nào không hợp với công bình.
230. Như thế giảng dạy cho con người hiểu học thuyết xã hội công giáo buộc phải ăn ở thế nào cho hợp trong phạm vi kinh tế xã hội vẫn chưa đủ, nhưng họ còn phải biết rõ phương pháp cần thiết để họ luôn hoàn tất nghĩa vụ đó.
Giáo dục thực nghiệm:
231. Vậy thiết tưởng, nền giáo dục xã hội sẽ khuyết điểm rất nhiều nếu đứng cạnh giáo sư, các môn đệ chỉ thụ động và không chịu hành động để thí nghiệm những bài học. Lý thuyết khi nào cũng phải kèm theo những kinh nghiệm cụ thể và những thực hành hữu hiệu.
232. Không ai biết rõ tự do là gì, nếu họ không tập quen dùng quyền tự do cho phải lẽ. Đó là một tục ngữ chí lý. Trong phạm vi kinh tế xã hội cũng thế, người ta hiểu biết học thuyết xã hội công giáo khi họ tận tâm hiệp lực hành động theo học thuyết ấy.
233. Do đó, các hội đoàn tông đồ giáo dân phải đóng góp một phần lớn trong việc giáo dục loài người về mặt xã hội. Nhất là các hội đoàn có mục đích riêng là thực hành đạo Chúa Kitô trong những công việc thuộc thế tục Vì những thí nghiệm hằng ngày, các nhân viên nhập vào những hội đoàn đó sẽ được tự luyện ngày một hơn rồi mới ra huấn luyện tuổi thanh niên ngày một đông hơn.
Chí hướng kitô hữu về đời sống:
234. Có một điều ta phải nhắc lại cho tất cả mọi người không phân biệt người ưu thế hay yếu hèn, điều đó chắc không phải ngoại đề, là chí hướng kitô hữu về đời sống con người, gồm cả ý chí anh hùng chịu đựng được mọi cực khổ và sống tiết kiệm nhờ ơn Chúa giúp sức.
235. Nhưng than ôi ! Ngày nay bao nhiêu người chỉ biết mê vui. Theo họ, cứu cánh đời sống, là nếm thử mọi thú vui cho mê say. Họ chỉ có một mối lo, là lo thỏa mãn những tai hại hồn xác họ có thể phải chịu? Dù chỉ xét theo lý đương nhiên ta cũng đủ rõ con người minh chính và khôn ngoan phải biết ăn ở cho có điều độ và thắng hãm dục tình. Vậy nếu ta xét theo đạo thánh Chúa mạc khải, thì ta càng phải quyết rằng: Phúc âm Giáo hội và cả một giáo khoa tu đức muôn thuở đồng ý yêu cầu giáo dân phải thắng hãm mọi dục vọng bất chính, và chịu đựng mọi sự khổ đau do đời sống gây nên. Sự cố gắng tích cực tu thân, trước cho thần trí đoạt thắng thể xác, được mạnh sức và khôn ngoan hơn, sau là đường lối hữu hiệu để tỏ lòng đền tội. Ai lại tự đắc là kẻ vô tội ngoài chính Chúa Kitô và Mẹ vô nhiễm của Người.
Đường lối huấn luyện giáo dân về học thuyết xã hội.
236. Thường ai quyết thực hành học thuyết xã hội phải trải qua ba giai đoạn: điều tra cho biết tình hình một cách tỉ mỉ; nhận xét hiện tượng dưới ánh sáng học thuyết công giáo; rồi quy định đường lối áp dụng vào thời thế hoàn cảnh những nguyên tắc vĩnh cửu của Giáo hội. Ba giai đoạn ấy, thường gọi là kiến thức, luận xét và hành động (xem, xét, làm).
237. Đó là phương pháp hành động, thanh niên cần phải tập để thành chuyên môn. Họ phải áp dụng tùy theo hoàn cảnh, để học thuyết xã hội công giáo họ đã học hiểu được kết quả ngay trong thực tế, mà không phải chỉ nằm trong óc loài người như một lý tưởng trừu tượng không ai thực hiện được.
238. Trong phạm vi thực hành, sẽ xảy ra những bất đồng ý kiến giữa những giáo dân rất thành thực. Trong trường hợp đó, họ phải biết tôn trọng và tìm mọi phương thế hợp tác với nhau để kịp thời thực hành những công việc cần thiết theo những đòi hỏi của thời thế hoàn cảnh. Nhất là họ phải tránh xa những cuộc tranh luận vô ích chỉ làm tổn sức mà không kết quả gì. Chỉ tìm những giải pháp tốt nhất mà bỏ những công việc mình có thể mà lại có phận sự buộc làm ngay là lỗi thời.
Vấn đề giao thiệp với những người chưa nhập đạo.
239. Thực ra những kitô hữu chuyên môn hành động kinh tế xã hội, thường hay giao tiếp với những người không đồng quan điểm với mình về đời sống con người, trong trường hợp đó, họ phải ân cần tuân giữ lập trường của Giáo hội mà không được chấp nhận những giải pháp dung hòa có thể làm thương tổn sự trọn vẹn của công giáo là luân lý. Nhưng mặt khác, họ phải thông cảm và thành thực tìm hiểu những lập trường của đối phương không bao giờ tìm tư lợi và sẵn sàng cộng tác vào những công việc tự nhiên là tốt hay đưa đến công ích. Chỉ trừ khi giáo phẩm lên tiếng quyết định theo vấn đề nào thì vấn đề đó giáo dân phải tòng phục tuân giữ. Thực ra Giáo hội không những chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ bảo vệ tôn giáo và luân lý cho toàn vẹn và chỉ cách áp dụng trong thực tế.
NGUYÊN TẮC CĂN BẢN CHỈ HUY MỌI HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI CỦA GIÁO DÂN.
Phận vụ giáo dân.
240. Những nguyên tắc căn bản ta cần đề cập về giáo dục, cũng có thể áp dụng vào mọi hành động công giáo nữa. Đó là phận vụ riêng của toàn thể giáo dân vì thực ra giáo dân phải hành động trong phạm vi thế trần luôn và thường phải tham gia vào những tổ chức mục đích hiện thể.
241. Muốn thực hành nghĩa vụ, giáo dân phải có chuyên môn họ đã đảm nhiệm. Nhưng đàng khác họ phải tận tâm hiệp lực áp dụng những nguyên tắc và những huấn lệnh của Giáo hội trong phạm vi xã hội, với một tấm lòng thành thực đầy tín nhiệm và tòng phục giáo quyền. Họ phải ý thức trách nhiệm: Nếu họ hành động trong phạm vi thế trần, mà không tuân giữ những nguyên tắc và những huấn lệnh do Giáo hội chỉ dạy và nhờ ta xác nhận tại đây thì họ có lỗi với phận sự và có khi còn phạm đến quyền lợi của anh em, và khiến người khác hiểu lầm học thuyết xã hội công giáo chỉ là một lý thuyết rất hay nhưng vô hiệu lực để cải thiện đời sống.
Sự tiến bộ của kỹ thuật và sự phát triển tinh thần.
242. Một điều ta đã nhắc lại, nhưng còn đáng ghi nhớ là ngày nay loài người đã hiểu các luật thiên nhiên sâu rộng. Họ đã sáng chế đủ các máy móc để chinh phục mọi tiềm lực trong thiên nhiên. Họ đã thể hiện không ngừng bao công việc vĩ đại đáng khen. Nhưng vì quyết chí chú tâm chinh phục và cải hóa ngoại giới, loài người sa vào một bước nguy, là quên mình và làm kiệt quệ nguồn sinh lực hồn xác của họ. Đức Piô XI đã ưu buồn than phiền rằng: “QA số 146”.
243. Đức Piô XII cũng đồng ý quả quyết rằng: “Đời ta bây giờ có một đặc tính khiến ai cũng phải ngạc nhiên là đang khi khoa học và kỹ thuật tiến bộ lạ lùng, thì loài người rút lui và không ngừng suy đồi về tinh thần tức là về ý thức phẩm giá đặc biệt của mình. Một kỳ công nhưng cũng là một quái tượng của thời đại ta là con người biến thành một vật khổng lồ trong tự nhiên giới, nhưng về tinh thần, con người chỉ còn là một tí hon giữa thế giới siêu nhiên vĩnh cửu.
244. Hơn bao giờ hết, lời thánh vịnh xưa về những người thờ cúng ngẫu thần ngày nay được thực hiện. Con người hành động mà quên cả phẩm giá tự nhiên của mình. Con người tuyên dương kỳ công của mình đến nỗi tưởng là thần. Thần của nó chỉ là vàng bạc do chính tay nó rèn đúc.
245. Là Chúa chiên ân cần chăm sóc toàn thể nhân loại, thì ta tha thiết khuyên nhủ đoàn con yêu quý, hãy tận tâm với phận vụ, hãy theo đuổi mục đích cho đến cùng hãy luôn luôn ý thức trách nhiệm đừng bao giớ thờ ơ quên lãng giá trị thiết yếu của mọi công việc.
246. Đời nào cũng như đời nào, Giáo hội đã hiểu biết và giảng dạy rằng: Sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, và tình trạng phồn thịnh làm nảy ra là một nguồn hạnh phúc chân chính, hằng biểu yện một nền văn minh tiến triển. Nhưng ai cũng phải luận xét sự tiến bộ ấy đúng theo giá trị tự nhiên của nó, là những phương tiện cần thiết cho loài người bước tới một cứu cánh cao siêu hơn là thiện hóa đời sống tự nhiên và cả đời sống siêu nhiên của mình.
247. Mong lời Thày chí thánh của ta, luôn vang dội bên tai các kitô hữu rằng: “Chinh phục cả thiên hạ mà mất linh hồn đối với loài người nào có ích gì? Hay là con người sẽ lấy gì chuộc lại linh hồn của mình”.
Thánh hóa các ngày lễ của mình.
248. Những lời nhắn nhủ đây bắt buộc ta nhắc lại cho anh em phận sự nghỉ việc phần xác các ngày lễ.
249. Để bảo vệ phẩm cách nhân loại được Thiên Chúa dựng sinh và phú ban cho một linh hồn giống hình ảnh của Người, Giáo hội đã không ngừng ép buộc mọi người phải tuân giữ điều răn thứ ba trong Thập giới. “Con hãy thánh hóa ngày thứ bảy”. Thiên Chúa có quyền lại có thể đòi con người phải cống hiến một ngày trong một tuần lễ để kính thờ Người, phải tạm bỏ mọi công việc vật chất mà đem cả lòng trí lên cùng Chúa và thành thực suy nghĩ đến những nghĩa vụ ràng buộc mình với Chúa.
250. Đó là một quyền lợi bất khả xâm phạm, và cũng là một sự cần thiết cho nhân loại. Ai cũng phải ngừng tay nghỉ việc, và đôi khi dưỡng sức sau những công việc vất vả thường nhật, để giải trí cho xứng đáng và phục hưng lại trong gia đình một tinh thần thống nhất, cần cho các gia đình sum vầy an vui cùng nhau.
251. Tôn giáo luân lý và cả y tế đều đồng ý đòi con người những ngày nghỉ nhất định. Không biết từ mấy thế kỷ, Giáo hội đã quy định ngày nghỉ ấy là ngày chủ nhật. Ngày ấy Giáo hội cũng buộc toàn thể giáo dân phải tham dự thánh lễ, vừa là kỷ niệm ơn cứu độ cũng là bí tích đem đến cho các linh hồn những ơn cứu chuộc chứa chan trong Chúa Kitô.
252. Nhưng ta rất ưu sầu, khi thấy bao người có lẽ không khinh hẳn luật thánh ấy, nhưng không tôn trọng bao nhiêu. Việc đó thật đáng trách, ta hết sức phản đối. Bỏ luật thánh đó, là gây thiệt hại cho cả hồn lẫn xác cá nhân yêu quý của ta.
253. Vì thế, ta quyết đem lại hạnh phúc hồn xác cho loài người, nhân danh Thiên Chúa, ta nhắc lại cho các công quyền, chủ nhân và công nhân, phận sự của họ phải tuân giữ luật thánh Chúa và Giáo hội. Xin họ ý thức trách nhiệm của họ trước mặt Chúa và xã hội.
Phận sự kitô hữu phải tham gia vào mọi công việc trần thế.
254. Sau những điều ta mới sơ lược trình bày, không ai, nhất là các giáo dân có thể kết luận rằng: Nghe vậy ta hãy khôn ngoan mà tránh xa những hành động tông đồ của ta trong phạm vi thế trần. Trái lại ai cũng phải kết luận rằng: Chúng tôi phải cộng tác nhiệt thành vào những việc đó.
255. Trong kinh nguyện cao siêu cầu xin cho Giáo hội luôn thống nhất, Chúa Giêsu đã khẩn nguyện Đức Chúa Cha rằng: Lạy Cha chí thánh, đừng cất môn đệ con khỏi thế gian, nhưng xin giữ họ khỏi mọi sự ác. Đừng ai bảo hai việc thánh hóa bản thân và tham dự vào những công việc thế trần là hai việc mâu thuẫn. Nghĩ như thế là lầm. Ai bảo muốn tu thân tích đức để tới bậc trọn lành của đạo Chúa Kitô thì phải bỏ hết mọi việc thế tục, ai nói lo việc thế tục là liều mình mất nhân cách chức vị kitô hữu của ta?
Nhân cách hóa nền văn minh hiện tại.
256. Trái lại xét theo ý Chúa quan phòng, ai cũng phải toàn thiện và thánh hóa bản thân nhờ các công việc thường ngày. Vậy công việc thường ngày đối với đa số các kitô hữu, là những công việc thế tục. Do đó, sứ vụ hiện tại của Giáo hội rất nặng nề: Cải hóa nền văn minh hiện tại cho xứng nhân phẩm con người và cho thích hợp với đạo phúc âm hơn. Sứ vụ này chính thời thế hiện tại đòi hỏi ở Giáo hội. Ai cũng hy vọng trước cho đời ta hướng về nguồn phúc cao siêu hơn và để thế giới khỏi mất những ân huệ bởi những cố gắng tiến bộ vừa qua, để khỏi bị tan rã và hư đi. Vậy để hoàn tất sứ vụ, Giáo hội cần phải có toàn thể giáo dân hợp tác: Trong những hành động thế tục của họ khi họ phải giao thiệp với đồng bào, họ phải lo kết hợp với Chúa trong Chúa Kitô, và trong bất cứ việc gì họ phải làm vinh danh Chúa theo lời Thánh Phaolô viết: “Bất cứ anh em ăn uống làm việc gì, anh em phải nói phải làm nhân danh Chúa Kitô nhờ Chúa Kitô mà làm sáng danh Đức Chúa Cha”.
Đạo Chúa Kitô và sự phát triển nhân cách.
257. Nếu có những hành động hay những tổ chức nào mưu ích cho con người tiến triển phần hồn và bước tới hạnh phúc trường sinh thì những hành động và những tổ chức ấy cũng rất hữu hiệu để giúp con người đạt tới mục đích tự nhiên của mình. Lời Thầy chí thánh đã phán xưa vẫn áp dụng vào đời ta bây giờ. Hãy tìm nước Chúa trước rồi các sự vật khác Chúa sẽ ban cho dư dật. Quả thực ai mà được trở nên toàn ánh sáng trong Thiên Chúa, ai luôn sống xứng phẩm giá con người của sự sáng, thường thấy rõ những đòi hỏi của công bằng trong mọi phạm vi hành động của con người, nhất là ở những nơi kẻ tham của ham lợi riêng cho họ, cho quốc gia hay chủng tộc của họ đã gây bao sự trắc trở. Hơn thế nữa, ai đáng sống vì lòng bác ái của Chúa Kitô, thì không thể nào không quý mến anh em đồng loại. Kẻ ấy hay thông cảm mọi sự khổ cực và mọi sự vui buồn của họ như của chính mình. Làm bất cứ việc gì, họ vẫn bền chí vui vẻ, nhân đạo và thi ân cho người khác vì lòng bác ái (1Cr 13,47).
Ý nghĩa cần lao đối với những người đã nhập vào Nhiệm Thể Chúa Kitô.
258. Nhưng ta không thể kết thúc bức thông điệp mà không nhắc lại nơi đây một tín điều quan trọng, một thực thể rất cao cả của đạo phúc âm. Chúng ta toàn là những chi thể sống động trong Giáo hội là Nhiệm thể của Chúa Kitô (1Cr 13,12).
259. Vì thế, ta tha thiết kêu mời các kitô hữu rải rác khắp thiên hạ không phân biệt giáo sĩ hay giáo dân là người ta tin nhận là con yêu quý của ta, hãy ý thức sự cao quý và chức vị tuyệt đối của họ. Sự cao quý và chức vị đó đã gồm tóm trong câu Phúc âm:
“Ta là cây nho, anh chị em là ngành lá”. Anh em liên kết với Chúa Cứu Thế, như các ngành nho tháp vào thân cây nên anh chị em cùng một sự sống thiên tính với Người. Anh em càng kết hiệp với Chúa Kitô bằng cả lòng trí, thì công việc của anh em càng nối dài công việc của Chúa Kitô và nhờ đó càng có công với việc cứu chuộc nhân loại. Những kẻ nào ở trong Ta thì cũng ở trong họ, nên kẻ ấy khai hoa kết quả nhiều. Vì thế, mọi công việc do con người làm ra đã được tôn cao và thêm giá trị. Công nhân nhờ công việc ấy để đến hoàn hảo phần hồn thông ơn cứu chuộc cho kẻ khác, nhờ công việc làm, công nhân sẽ rải rắc ơn cứu độ cho người khác. Cũng nhờ đó nguyên tắc Phúc âm, tiêm nhiễm cả xã hội dân sự là cảnh sinh hoạt và lao động của ta, như men trộn vào bột sẽ làm cho bột hóa nên bánh.
Áp dụng học thuyết thông điệp này vào thực tế.
260. Đời ta bây giờ, ai cũng biết đã đầy tà thuyết nguy hại và quằn quại trong những hỗn loạn ghê gớm. Nhưng dù sao cũng là một cánh đồng mênh mông mở rộng cho những tông đồ của Giáo hội làm việc. Vì thế ta ôm ấp trong lòng bao hy vọng rực rỡ.
Anh em thân yêu, các con quý mến, Căn cứ vào bức thông điệp RN của Đức Lêô XIII đã lần lượt suy xét các vấn đề xã hội đời ta nêu lên. Ta đã định rõ những nguyên tắc, và ban những huấn lệnh, anh em sẽ suy niệm và cố hết sức áp dụng vào thực tế. Ai tận tâm với phận sự và bền chí thực hành những nguyên tắc đó thì sẽ góp phần rất lớn trong việc củng cố nước Chúa trên mặt đất này. Nước Chúa là nước chân lý, nước hằng sống, nước thánh thiện và đầy ơn phúc, nước công bằng bác ái và hòa bình. Sau một thời gian sống ở nước đó, có ngày chúng ta sẽ được sang nước hạnh phúc trường sinh nơi Thiên Chúa đã định cho chúng ta từ ngày Người tạo thiên lập địa, và cũng là nơi ta tận tâm hy vọng được tới.
Học thuyết xã hội công giáo rất hữu hiệu.
261. Thông điệp này trình bày học thuyết xã hội của Giáo hội công giáo, là hiền mẫu và tôn sư của các dân tộc. Người là ngọn đèn sáng rực bừng cháy, tiếng nói của Người đầy khôn ngoan và giáo huấn của Người trải mọi thời đại: thần lực của Người linh nghiệm bổ túc mọi nhu cầu mỗi ngày một nhiều hơn của nhân loại, và làm êm dịu mọi mối lo và mọi khó khăn của đời sống tạm gởi này: Tiếng nói của Người hòa nhịp với dư âm của Thánh vịnh xưa và không ngừng uỷ lạo an ủi mọi tâm hồn (Tv 84,9tt).
262. Đó là những lời nguyện chúc ta muốn lưu lại lúc kết thúc bức thông điệp này ta đã tỏ bày hết nỗi lòng ân cần lo lắng của ta đối với toàn thể Giáo hội. Ước gì Đấng cứu chuộc nhân loại mà Thiên Chúa đã tôn lên làm Đấng khôn ngoan, công bình, thánh thiện làm Đấng cứu thế, chóng được ngự trị và chiến thắng qua mọi thời gian trong mọi người và trên hết mọi sự vật. Ước gì xã hội nhân loại chóng được tu bổ lại, để các dân tộc cùng nhau hưởng thụ một đời sống phồn thịnh an vui và thái bình.
263. Để làm bảo chứng cho những lời nguyện chúc này, để đảm bảo tấm lòng hiền phụ của ta, ta rộng tay hết lòng thành thực ban phép lành tòa thánh cho toàn thể anh em khả kính, toàn thể giáo dân, anh em phụ trách chăm nom, và nhất là cho những kẻ sẽ nhiệt tâm thực hành lời ta khuyên bảo.
Ban hành tại Rôma, ngày 15-5-1961
Năm thứ ba tôi được bầu làm Giáo hoàng
Gioan XXIII
Nguồn: Lấy từ cuốn Các Thông Điệp Xã Hội
Bản dịch của Đại Chủng Viện Thánh Giuse Saigon
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét