La Documentation Catholique n.2029, 02.6.1991
Libreria Editrice VATICANA 1991.
LỜI GIỚI THIỆU.
THÔNG ĐIỆP MỚI MUỐN ĐÁP ỨNG NHỮNG NIỀM MONG ĐỢI CỦA XÃ HỘI TRONG
THỜI ĐẠI NGÀY NAY.
1. Trong tháng 5 này, chúng ta sẽ mừng kỷ niệm bách chu niên ngày
công bố thông điệp RN. Như anh chị em đã biết, tôi muốn đánh dấu ngày kỷ niệm
đó bằng một văn kiện, một thông điệp mới mà tôi sẽ cho công bố vào ngày mai.
Khi soạn thảo văn kiện này, tôi đã kín múc từ kho tàng truyền thống và từ đời
sống của Giáo hội để vạch ra một số đường hướng và viễn tượng khả dĩ đáp ứng
được những vấn đề xã hội ngày một nghiêm trọng hơn như thấy trong thời đại
chúng ta. Quả thực, Giáo hội nhìn lại quá khứ không phải để tránh né những
thách đố của hiện tại, nhưng để từ những giá trị đã được tôi luyện và từ sự suy
niệm về những gì Truyền thống đã làm và hiện vẫn còn đang làm trong Giáo hội,
Giáo hội rút ra được một nguồn năng lực mới và một niềm xác tín mới cho hoạt
động mà Giáo hội phải tiếp tục đảm nhận giữa con người. Giáo hội đang đối diện
với những thách đố của thời đại, một thời đại khác xa so với thời của Đức Lêô
XIII, nhưng Giáo hội luôn hành động theo cùng một Thần Khí: Thần khí của Thiên
Chúa, Thần khí mà Vị tiền nhiệm của tôi đã vâng theo khi Người cố gắng trả lời
cho những niềm hy vọng và mong đợi của thời đại Ngài. Cả tôi nữa, trước những
hy vọng và mong đợi của thời đại ngày nay, tôi cũng cố gắng làm như Vị tiền
nhiệm của tôi.
2. Một biến cố hình như chi phối thời điểm gay go mà chúng ta đang
sống: Châu Âu và thế giới đang bước vào giai đoạn cuối của một chu kỳ lịch sử.
Hệ thống Macxit đã bị phá sản, lý do của sự phá sản này lại đúng
là những lý do mà thông điệp RN đã nêu ra một cách đanh thể gần như có tính
cách tiên tri. Trong sự phá sản của cái quyền lực về ý thức hệ và kinh tế ấy,
thứ quyền lực làm như muốn đè bẹp, thậm chí loại trừ cảm thức tôn giáo ra khỏi
ý thức của con người, bên trên tất cả những nguyên nhân xã hội và chính trị,
Giáo hội nhìn thấy nơi đó sự can thiệp của Thiên Chúa Quan phòng, Đấng mà duy
một mình Người dẫn dắt và điều hành lịch sử.
Tuy nhiên, công cuộc giải phóng liên hệ đến biết bao dân tộc, biết
bao Giáo hội lẫy lừng và những cá nhân không được biến thành một niềm tự mãn
tai hại hay một thái độ đắc thắng không chính đáng.
Hệ thống nói trên đã tỏ ra lỗi thời ít là một phần; nhưng trong
những miền khác nhau trên thế giới, sự nghèo khổ cùng cực nhất vẫn tiếp tục
hoành hành; có những dân tộc mà toàn bộ bị tước mất những quyền sơ đẳng và
không làm sao có được những phương tiện cần thiết để đáp ứng những nhu cầu cơ
bản của con người. Ngay tại những nước giàu, người ta cũng nhận thấy một sự rối
loạn về cuộc sống, một sự bất lực để sống và đánh giá đúng đắn về ý nghĩa của
cuộc sống và ngay khi sung túc về của cải vật chất, vẫn thấy có một sự vong
thân và đánh mất nhân cách ở rất nhiều người; những con người này cảm thấy mình
bị giản lược thành chức phận của một bánh xe trong cơ chế sản xuất và tiêu thụ
và không tìm được phương thế để khẳng định phẩm giá của mình là những con người
được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa.
Một hệ thống đã đến ngày tàn, phải; nhưng cũng không vì thế mà
giải quyết được những vấn đề, những hoàn cảnh bất công và đau khổ là những điều
trước đây đã từng nuôi dưỡng hệ thống ấy. Sau sự thất bại của một giải pháp
không thỏa đáng, vấn đề mà giải pháp nói trên đã tìm cách giải quyết vẫn luôn
hiện thực và cấp bách hơn.
Trong thông điệp mới này, Giáo hội không chỉ trình bày vấn đề ấy
cho lương tâm của toàn thể nhân loại, nhưng còn đưa ra một đề nghị nhằm đạt tới
những giải pháp tương xứng. Đó là lặp lại lời yêu cầu phải có công bình xã hội,
tình liên đới giữa những người lao động, phẩm giá của nhân vị, không cam chịu
cảnh bóc lột và sự nghèo khổ, không bao giờ chối bỏ chiều kích siêu việt của
con người, vốn ước muốn, lại còn phải được quyền đầu tư công sức của mình vào
công cuộc kiến tạo xã hội.
3. Học thuyết của Giáo hội về vấn đề xã hội vẫn luôn luôn nhìn
nhận quyền tư hữu của mỗi cá nhân đối với những phương tiện sản xuất, và Giáo
hội đã nhận thấy một quyền tư hữu như thế sẽ giúp bảo vệ được quyền tự do trước
mọi hình thức đàn áp có thể xảy ra. Lại nữa, sự phân chia quyền sở hữu cho
nhiều người giúp cho mọi người muốn thỏa mãn những nhu cầu của mình, phải dựa
vào sự hợp tác với người khác, đang khi đó sự trao đổi cần thiết trong xã hội
sẽ được điều phối bằng những khế ước mà trong đó ý muốn tự do của người này phù
hợp với ý muốn tự do của người kia. Khác với nền kinh tế độc tài, được hoạch
định và tập trung, nền kinh tế tự do và vận hành theo những động lực xã hội giả
thiết là các chủ thể thực sự có tự do và chính họ phải là những người đảm nhận
những trách nhiệm rõ ràng, phải thành thực tôn trọng những hợp đồng đối với
những người cộng tác và lúc nào cũng phải để ý đến công ích.
Bởi vậy, thật phải lẽ khi nhìn nhận giá trị luân lý của quyền tự
do buôn bán và trong đó bao hàm cả quyền tự do kinh doanh, quyền “tổ chức nhịp
cầu gặp gỡ” giữa nhu cầu của người tiêu thụ va những nguồn cung cấp có thể đáp
ứng được những nhu cầu đó nhờ việc tự do thương lượng. Về điểm này, để đối lại
với những lý thuyết tập thể hóa, Đức Lêô XIII đã đòi phải có quyền sáng kiến cá
nhân trong khuôn khổ của việc phục vụ cần đem lại cho cộng đồng.
4. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo đã luôn luôn và hiện vẫn còn từ
khước việc đề cao thương mại như một bộ máy điều hòa tối thượng và như kiểu mẫu
hay tổng hợp của đời sống xã hội. Có một điều gì đó cần phải được
trả cho con người bởi lẽ họ là con người, bởi phẩm giá của họ và bởi họ được
tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, không cần biết họ có mặt trên thị trường
hay không, họ sở hữu những gì, và do đó có thể bán những gì, và có phương thế
nào để mua sắm. “Cái điều gì đó” mà tôi vừa nói không bao giờ được phép lãng
quên, trái lại nó đòi hỏi sự tôn trọng và liên đới; hai điểm này là biểu hiện
xã hội của tình yêu và là thái độ duy nhất thích hợp trước một nhân vị. Có
những nhu cầu của con người không tiếp cận được với thị trường đó vì những ngăn
trở tự nhiên hay xã hội, nhưng lại chính là những nhu cầu cần được thỏa mãn.
Thực vậy, cộng đồng quốc gia và quốc tế có bổn phận giải đáp cho
những nhu cầu này bằng cách trả lời thẳng, chẳng hạn trong trường hợp có một
ngăn trở không thể vượt qua được, hoặc nếu có thể, thì tạo ra những phương thế
giúp tiếp xúc trực tiếp với thị trường, với thế giới sản xuất và tiêu thụ.
Quyền tự do kinh tế là một khía cạnh của tự do con người, không
được tách rời khía cạnh này khỏi những khía cạnh khác và nó phải góp phần làm
cho các nhân vị được thể hiện trọn vẹn nhằm thiết lập một cộng đồng nhân loại
đích thực.
5. Hẳn nhiên phải khẳng định quyền tư hữu cùng một trật với quyền
hưởng dùng mà mọi người đều có đối với những của cải trên mặt đất. Những ai
đang sở hữu của cải phải luôn nhớ rằng của cải đó là để cho mọi người cùng
hưởng và vì thế, đang khi những của cải này bảo đảm tự do của họ, thì các của
cải đó cũng bảo vệ và làm triển nở tự do của những người khác nữa. Ngược lại,
khi một người làm mất đi chức năng bổ túc những thiết yếu của của cải thì như
thế họ đánh cắp những của cải này từ tài sản chung, tức là đi ngược lại với mục
đích mà vì đó của cải đã được trao cho họ. Không một nền kinh tế tự do nào có
thể vận hành lâu bền và đáp ứng được những điều kiện của một cuộc sống xứng với
nhân phẩm hơn, nếu nó không được quy định bởi những cấu trúc chặt chẽ về mặt
pháp lý và chính trị, và nhất là, nếu nó không được nâng đỡ và “tiếp sức” bởi
một lương tâm vững vàng về luân lý và tôn giáo.
Lập trường này vừa lý tưởng lại vừa thực tế, ăn rễ sâu nơi chính
bản chất con người. Thật vậy, “con người là một tạo vật chỉ có thể hoàn thành
chính mình cách trọn vẹn nhờ việc tự do trao hiến chính mình” (GS, 24). Con
người là một chủ thể độc đáo mà người ta không sao chép lại được và cũng không bao
giờ có thể nhận chìm trong một khối nhân loại mơ hồ dù rằng con người chỉ hoàn
thành trọn vẹn vận mệnh của mình một khi họ biết vượt lên trên những lợi lộc
hẹp hòi của cá nhân để liên kết với những con người khác bằng rất nhiều liên
hệ. Gia đình đã nẩy sinh theo cách đó. Xã hội cũng đã nẩy sinh theo cách đó.
Trong cấu trúc nội tại của mình, chính việc lao động đề cao cả
quyền tự lập của nhân vị lẫn nhu cầu gắn bó cùng người khác trong lao động. Con
người lao động cùng với người khác, con người thiết lập tương quan với người
khác bằng lao động. Nhưng tương quan này có thể là đối nghịch, cạnh tranh hoặc
đàn áp, nhưng bên cạnh đó còn có tương quan hợp tác và cùng thuộc về một cộng
đồng liên đới.
Hơn nữa, con người không chỉ lao động cho riêng mình nhưng còn cho
người khác, khởi đầu từ chính gia đình của mình rồi đến cộng đồng địa phương,
lan rộng đến quốc gia và toàn nhân loại. Chính thực tại đó là điều mà lao động
phải phục vụ: chính trong lao động, sự trao hiến mình cách tự do và phong phú
được biểu lộ. Bởi vậy, trong khi khẳng định mối liên hệ hỗ tương chặt chẽ giữa
quyền tư hữu và quyền hưởng dùng của mọi người đối với của cải, học thuyết của
giáo hội về xã hội không làm gì khác hơn là khôi phục hoạt động kinh tế trong
khung cảnh cao đẹp và bao quát hơn của ơn gọi chung của loài người.
6. Lịch sử đã luôn luôn chứng kiến những nỗ lực mới nhằm kiến tạo
một xã hội tốt đẹp hơn và công bình hơn trong khung cảnh hợp nhất, cảm thông và
liên đới. Nhiều nỗ lực trong số đó đã thất bại trong khi một số khác chống lại
chính con người.
Bản chất con người vốn có khuynh hướng liên kết thành xã hội,
nhưng đồng thời hình như cũng bộc lộ những dấu hiệu chia rẽ, thiếu sót trong
bổn phận và thù hận. Nhưng cũng chính vì thế mà Thiên Chúa, Cha của hết thảy
mọi người, đã sai Con Độc Nhất của Người, Đức Giêsu Kitô, đến trần gian để vượt
thắng những nguy cơ đe dọa ấy và để làm biến đổi tâm trí con người bằng việc
tặng ban ân sủng.
Anh chị em thân mến,
Để kiến tạo một xã hội công bằng hơn và xứng đáng với con người
hơn, một sự dấn thân qui mô trên bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hóa quả là cần thiết. Nhưng như thế chưa đủ ! Sự dấn thân có tính chất quyết
định phải xuất phát từ chính cõi lòng của con người, đụng chạm đến chỗ thâm sâu
nhất của lương tâm con người, là nơi mà con người tự mình quyết định. Chỉ với
mức độ như thế, con người mới có thể tiến hành một cuộc thay đổi sâu xa và tích
cực nơi chính bản thân mình và đó là bước khởi đầu vững chắc để góp phần làm
biến đổi và cải thiện toàn xã hội.
Trong tháng này là tháng được dành riêng để tôn sùng Thánh Mẫu
Thiên Chúa, chúng ta hãy nguyện xin Mẹ nâng đỡ những nỗ lực của mọi người chúng
ta, cũng như sự dấn thân liên đới của hết thảy chúng ta, đồng thời xin Mẹ trợ
giúp chúng ta kiến tạo được trong thế giới này những cơ cấu công bằng hơn và
đầy tình huynh đệ nhằm đạt đến một nền văn minh mới: nền văm minh của tình liên
đới và yêu thương.
Gioan Phaolô II.
Thông điệp Bách Chu Niên của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
gửi chư huynh trong hàng Giám Mục, các linh mục, các Gia đình tu
trì, các tín hữu thuộc Giáo hội Công giáo và mọi người thiện chí.
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ban hành thông điệp RN.
Gioan Phaolô II, giáo hoàng, kính chào và gửi phép lành Tòa thánh
đến chư huynh đáng kính và các con thân mến !
Nhập đề
1. Tầm quan trọng lịch sử của thông điệp Rerum Novarum.
Bách chu niên kỷ niệm ngày ban hành thông điệp bắt đầu bằng những
từ “Tân sự” (RN)[1] của vị
tiền nhiệm của tôi, Đức Cố giáo hoàng khả kính Lêô XIII, đánh dấu một thời điểm
rất quan trọng trong thông điệp hiện nay của lịch sử Giáo hội cũng như trong
triều đại Giáo hoàng của tôi. Thực vậy, thông điệp đó đã được đặc biệt lưu ý kỷ
niệm trong thời gian từ giáp năm 40 cho đến 90, qua các văn kiện long trọng của
các vị giáo hoàng: có thể nói vận mệnh lịch sử của thông điệp RN đã được đánh
dấu từng giai đoạn qua các văn kiện khác, hướng sự chú ý đến RN và đồng thời
hiện đại hóa thông điệp đó[2].
Cũng thế, nhân kỷ niệm 100 năm, thể theo nguyện vọng của đông đảo
Giám Mục, các cơ quan của Giáo hội, các trung tâm đại học, các vị lãnh đạo
nghiệp đoàn và người lao động với tư cách cá nhân, hoặc như phần tử của các
hiệp hội trước tiên tôi muốn cùng với toàn thể Giáo hội tuyên dương công nghiệp
của vị Giáo hoàng khả kính này và “văn kiện bất tử”[3] của
Người. Tôi cũng muốn nói lên rằng dòng nhựa sống dồi dào dâng lên từ gốc rễ đó
đã không cạn khô theo năm tháng, nhưng ngược lại, trở nên phong phú hơn. Điều
đó được minh chứng qua các sáng kiến thuộc nhiều lãnh vực khác nhau được thực
hiện trước, đồng thời, hoặc theo sau cuộc lễ này, những sáng kiến của các Hội
đồng Giám Mục, các tổ chức quốc tế, các đại học và các viện hàn lâm, các nghiệp
đoàn và các tổ chức hay các nhân khác trong nhiều miền trên trái đất.
2. Kỷ niệm bách chu niên.
Thông điệp này góp phần vào các cuộc lễ đó để tạ ơn Thiên Chúa,
Đấng mà “mọi ân huệ tốt lành, mọi phúc lộc hoàn hảo từ Người ban xuống” (Gc
1,17), vì Người đã sử dụng một văn kiện Tòa Thánh Phêrô cách đây 100 năm để
thực hiện nhiều việc tốt lành và tỏa chiếu nhiều luồng sáng trên Giáo hội cũng
như trên thế giới. Cuộc lễ chúng ta cử hành hôm nay liên hệ tới thông điệp của
Đức Lêô XIII, nhưng đồng thời cũng liên hệ tới các thông điệp và các văn kiện
khác của các vị tiền nhiệm của tôi, đã góp phần hướng sự chú ý tới thông điệp
đó và khai triển ảnh hưởng của nó qua nhiều năm, tạo thành một học thuyết được
gọi là “học thuyết xã hội”, “giáo huấn xã hội” hay còn được gọi là “huấn giáo
về xã hội” của Giáo hội.
Hai thông điệp được ban hành trong triều đại giáo hoàng của tôi đã
qui hướng về giáo huấn đó, giáo huấn vẫn giữ được giá trị của nó: Laborem
exercens về lao động của con người, và Sollicitudo rei socialis về những vấn đề
hiện nay trong việc phát triển con người và của dân tộc[4].
3. Đọc lại thông điệp RN.
Giờ đây tôi muốn đề nghị “đọc lại” thông điệp của Đức Lêô XIII, và
mời gọi “nhìn lại quá khứ” về chính bản văn thông điệp để tái khám phá các
nguyên tắc nền tảng phong phú đã được thành hình trong thông điệp này nhằm giải
quyết những vấn đề người lao động. Nhưng tôi cũng mời gọi giờ đây hãy nhìn về
những “sự việc mới” quanh chúng ta và, có thể nói, chúng ta đang chìm ngập
trong đó. Những sự việc mới này rất khác với những “sự việc mới” ở thập niên
cuối thế kỷ trước. Sau cùng tôi mời gọi “hướng về tương lai” khi mà chúng ta đã
thoáng thấy thiên niên kỷ thứ ba của kỷ nguyên kitô giáo, tuy đầy dẫy những ẩn
số, nhưng cũng đầy hứa hẹn. Những ẩn số, những điều còn chưa hiểu và những hứa
hẹn mời gọi chúng ta vận dụng trí tưởng tượng và sáng tạo, đồng thời thúc đẩy
chúng ta, các môn đệ Chúa Kitô, Đấng là người “Thầy duy nhất” (x. Mt 23,8),
lãnh nhận trách nhiệm tỏ bày con đường công bố sự thật, và thông ban sự sống là
chính Người (x. Ga 14,6).
Làm như thế, chúng ta không chỉ tái khẳng định giá trị vĩnh cửu
của giáo huấn đó, nhưng còn cho thấy ý nghĩa đích thực của truyền thống Giáo
hội, một truyền thống luôn sống động và tích cực, xây dựng trên nền tảng bởi
các tổ phụ của chúng ta trong đức tin, và đặc biệt trên điều mà “các tông đồ
truyền lại cho Giáo hội”[5] nhân danh
Đức Kitô: Người là nền tảng, và “không ai có thể đặt nền tảng nào khác"
(x. 1Cr 3,11).
Chính vì ý thức sứ vụ kế vị Thánh Phêrô mà Đức Lêô XIII đã quyết
định lên tiếng, và cũng chính ý thức đó ngày hôm nay đang thúc đẩy kẻ kế vị
Người. Cũng như Người và các Đức Giáo hoàng trước và sau Người, tôi cảm hứng từ
hình ảnh trong Tin Mừng về “người kinh sư trở nên môn sinh Nước Trời” mà Đức
Kitô ví “như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho mình cả cái cũ lẫn cái mới” (Mt
13,52). Kho tàng đó là dòng chảy cuồn cuộn của truyền thống Giáo hội chứa đựng
những “điều cũ” luôn được đón nhận và truyền lại, nhờ đó hiểu được những “điều
mới”, trong đó đang diễn ra đời sống của Giáo hội và của thế giới.
Những điều mới này khi hội nhập vào truyền thống, trở thành kỳ cựu
và cung cấp chất liệu và cơ hội để phong phú hóa truyền thống cũng như phong
phú hóa đời sống đức tin. Góp phần vào đó, còn có hoạt động phong phú của hàng
triệu triệu con người được khích lệ bởi giáo huấn của Giáo hội về vấn đề xã
hội, đã cố gắng cảm hứng từ giáo huấn đó để dấn thân vào thế giới. Khi hành
động một cách cá nhân, hay qui tụ bằng nhiều cách khác nhau thành những nhóm,
hiệp hội và tổ chức, họ đã làm thành một phong trào lớn bênh vực con người và
bảo vệ phẩm giá của con người. Qua những thăng trầm của lịch sử, điều đó đã góp
phần làm nên một xã hội công bằng hơn, hay ít là chặn đứng và hạn chế những bất
công.
Thông điệp này nhằm làm sáng tỏ sự phong phú của các nguyên tắc mà
Đức Lêô XIII đã diễn tả, những nguyên tắc này thuộc về gia sản đạo lý của Giáo
hội, và theo danh nghĩa đó, có thế giá của quyền giáo huấn. Nhưng mặt khác, ưu
tư mục vụ cũng khiến tôi đưa ra việc phân tích mấy sự kiện lịch sử gần đây.
Không cần phải nhấn mạnh rằng việc cẩn thận nhận định những nhu cầu mới của sứ
vụ loan báo Tin mừng là trách nhiệm của người mục tử. Tuy nhiên, khi khai triển
những nhận định đó, chúng tôi không nhằm trình bày những phán quyền dứt khoát
bởi vì tự nó, các nhận định này không thuộc phạm vi riêng của quyền giáo huấn.
CHƯƠNG 1. NHỮNG NÉT TIÊU BIỂU CỦA THÔNG ĐIỆP TÂN SỰ.
4. Một kiểu thức xã hội mới.
Khoảng cuối thế kỷ trước, Giáo hội phải đối diện với một tiến
trình lịch sử đã bắt đầu từ ít lâu trước đó và đang lên tới mức độ nguy kịch.
Trong các yếu tố xác định tiến trình này, có một tổng thể những thay đổi từ căn
bản xảy ra trong lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội, và cả trong khuôn khổ
khoa học và kỹ thuật, ngoài ra, còn có nhiều thứ ảnh hưởng của các ý thức hệ bá
chủ. Trong lãnh vực chính trị, những thay đổi này làm nẩy sinh một quan niệm
mới về xã hội và nhà nước, và do đó cả về quyền bính nữa. Một xã hội truyền
thống đã biến mất trong khi một xã hội mới bắt đầu xuất hiện, được ghi dấu bằng
niềm hy vọng những quyền tự do mới, nhưng đồng thời cũng có nguy cơ sa vào
những hình thức bất công và nô lệ mới.
Trong lãnh vực kinh tế, nơi hội tụ những khám phá và ứng dụng khoa
học, người ta dần dần đạt được những cơ cấu mới trong việc sản xuất của cải
tiêu dùng. Người ta đã chứng kiến sự xuất hiện một hình thức tư hữu mới, tức là
nguồn vốn, và một hình thức lao động mới, lao động trả lương, lao động này được
xác định bằng nhịp độ làm việc cực nhọc, không lưu ý đến mọi khác biệt về phái
tính, tuổi tác hay tình trạng gia đình mà chỉ căn cứ vào hiệu năng để gia tăng
lợi nhuận.
Như thế, lao động trở thành một món hàng có thể được tự do mua bán
trên thị trường, và giá cả của nó chỉ được qui định tùy vào luật cung cầu, mà
không để ý tới nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống của người công nhân và gia
đình họ. Hơn nữa, người lao động thậm chí không chắc có bán được “món hàng” của
mình hay không, và họ thường xuyên bị đe dọa thất nghiệp; nếu không có xã hội
bảo trợ, họ sẽ lâm vào nguy cơ chết đói.
Hậu quả của việc biến đổi đó là “chia cắt xã hội thành hai giai
cấp cách nhau một trời một vực[6]. Tình trạng
này thêm vào những biến đổi thuộc lãnh vực chính trị đã nhấn mạnh ở trên. Như
vậy, lý thuyết chính trị nổi bật ở thời đại đó có khuynh hướng cổ võ sự tự do
tuyệt đối về kinh tế bằng những luật lệ được thích nghi cho phù hợp, hay ngược
lại cố ý tranh mọi sự can thiệp. Đồng thời, dưới hình thức có tổ chức và bằng
cách thức nhiều khi có bạo lực, đã bắt đầu xuất hiện một quan niệm khác về tư
hữu và đời sống kinh tế, kéo theo một cơ câu mới về chính trị và xã hội.
Ở thời điểm cực độ của sự đối kháng này, khi mà sự bất công trở
nên trầm trọng trong thực tại xã hội ở nhiều nơi, và nguy cơ một cuộc cách mạng
được cổ võ bởi những ý tưởng mà lúc đó được gọi là “xã hội chủ nghĩa”, đã xuất
hiện rõ ràng, thì Đức Lêô XIII đã can thiệp bằng cách ban hành một văn kiện bàn
về “vấn đề thợ thuyền” một cách có hệ thống. Thông điệp này đã được chuẩn bị
bằng những thông điệp khác đề cập nhiều hơn đến những giáo huấn về chính trị,
và còn có những thông điệp khác ban hành sau đó nữa[7]. Trong bối
cảnh như vậy, đặc biệt nên nhắc lại thông điệp Libertas praestantissimum, trong
đó nhắc tới mối liên hệ thiết yếu giữa tự do của con người với chân lý, mối
liên hệ này bền chặt đến nỗi nếu tự do từ chối nối liền với chân lý, nó sẽ trở
thành độc tài, và cuối cùng, chính mình sẽ lệ thuộc những đam mê hạ đẳng nhất
và sẽ tự hủy diệt. Thực vậy, tất cả những điều tệ hại mà thông điệp RN muốn
loại trừ đó phát xuất từ đâu, nếu không phải là từ một thứ tự do mà trong lãnh
vực hoạt động kinh tế và xã hội, đã xa rời chân lý về con người ?
Mặt khác, Đức Lêô XIII đã cảm hứng từ giáo huấn của các vị tiền
nhiệm cũng như từ các văn kiện khác của các Đức Giám Mục, từ những nghiên cứu
có tính khoa học của người giáo dân, từ hoạt động của các phong trào và các
hiệp hội Công giáo và từ những thực hiện cụ thể trong lãnh vực xã hội đã ghi đậm
nét trên đời sống Giáo hội trong hậu bán thế kỷ XIX.
5. Giải đáp của Giáo hội.
Những “sự việc mới” được Đức Giáo hoàng nghiên cứu đều là những
vấn đề không tích cực chút nào. Đoạn đầu của thông điệp trình bày bằng những từ
ngữ mạnh mẽ về những “sự việc mới” đó cũng là tên gọi của thông điệp: “Vào thời
điểm phát triển ước vọng những sự việc mới mà từ lâu đã khuấy động các nhà
nước, phải chú ý nhận ra nỗi khát vọng thay đổi, chuyển từ lãnh vực chính trị
sang lãnh vực kế cận là kinh tế. Thực vậy, nền kỹ nghệ đã phát triển và các
phương pháp kỹ nghệ cũng đã được canh tân hoàn toàn. Nhưng tương quan giữa chủ
nhân và thợ thuyền đã thay đổi, tiền bạc, của cải tập trung vào tay một thiểu
số, còn đa số sống trong nghèo đói. Người thợ đã có ý thức cao hơn về chính
mình và đã liên kết với nhau chặt chẽ hơn. Tất cả những điều đó, không kể sự
suy đồi về thuần phong mỹ tục, rốt cuộc đã làm bùng nổ một cục xung đột”[8].
Đức Giáo hoàng và Giáo hội cũng như xã hội dân sự đang đối diện
với một xã hội bị chia cắt do sự xung đột ngày càng gay gắt và bất nhân, đến
nỗi nó không còn biết đến lề luật, qui tắc nào nữa, đó là sự xung đột giữa tư
bản và lao động, hay theo kiểu nói của thông điệp, đó là vấn đề thợ thuyền. Đức
Giáo hoàng không ngần ngại đưa ra phán quyết về chính cuộc xung đột này trong
những hoàn cảnh bi đát mà người ta đã nhận thấy thời đó.[9]
Ở đây tôi muốn đưa ra suy nghĩ đầu tiên mà thông điệp gợi ra cho
thông điệp chúng ta. Đối diện với cuộc xung đột giữa con người với nhau, có thể
nói là giữa những “con chó sói”, ngay chính trên bình diện những điều kiện vật
chất tối thiểu đủ sống của những người này và sự giàu có dư thừa của những
người khác, Đức Giáo hoàng không ngần ngại can thiệp nhân danh “trách vụ tông
đồ”, nghĩa là nhân danh sứ vụ người đã lãnh nhận nơi chính Đức Giêsu Kitô để
“chăn dắt đoàn chiên” (x Ga 21,15-17), để cầm buộc và tháo cởi dưới đất “vì
nước trời” (x Mt 16,19). Ý định của Người rõ ràng là để tái lập hòa bình, và
độc giả ngày nay phải nhận ra sự kết án nghiêm khắc không khoan nhượng của
Người chống lại cuộc đấu tranh giai cấp[10]. Nhưng Người
rất ý thức sự kiện là hòa bình được xây dựng trên nền tảng công lý : rõ ràng
nội dung chủ yếu của thông điệp là công bố những điều kiện nền tảng của công lý
trong bối cảnh kinh tế và xã hội của thời đó[11].
Như thế, tiếp theo các vị tiền nhiệm, Đức Lêô XIII đã thiết lập
một mô hình vững bền cho Giáo hội. Thực vậy, đứng trước những tình huống cụ thể
của con người, cá nhân và cộng đoàn, từng quốc gia và quốc tế, Giáo hội lên
tiếng, và vì họ, Giáo hội công bố một giáo lý đích thực, một học thuyết giúp
Giáo hội phân tích những thực tại xã hội, cũng như đề ra những nhận định của
mình về các thực tại đó, và đưa ra những đường hướng để giải đáp một cách chính
đáng các vấn đề do những thực tại đó đặt ra.
Vào thời Đức Lêô XIII, một quan niệm như thế về quyền hạn và trách
nhiệm của Giáo hội chưa hề được mọi người chấp nhận. Thực vậy, có hai khuynh
hướng nổi bật: một là hướng về trần thế và cuộc sống đời này mà đức tin không
được can thiệp vào; khuynh hướng thứ hai hướng về ơn cứu độ hoàn toàn đặt ở đời
sau, và ơn cứu độ đó không đem lại áng sáng hay hướng đi nào cho cuộc sống trần
thế này cả. Khi ban hành thông điệp Tân Sự, có thể nói là Đức Giáo hoàng đã
trao cho Giáo hội “quyền công dân” trong những thực tại đang thay đổi của đời
sống công cộng. Điều này sẽ được xác định rõ hơn nữa trong các văn kiện sau đó.
Thực vậy, giáo huấn của Giáo hội về vấn đề xã hội cũng như việc truyền bá giáo huấn
đó thuộc về sứ vụ loan báo tin mừng của Giáo hội; đó là một phần cốt yếu của sứ
điệp Kitô giáo, bởi vì giáo lý này đưa ra những hệ luận trực tiếp của sứ điệp
đó trong đời sống xã hội, và đặt lao động thường nhật và cuộc đấu tranh cho
công bằng vào khung cảnh việc làm chứng cho Đức Kitô, Đấng cứu độ. Giáo lý đó
đồng thời cũng là nguồn hiệp nhất và hòa bình trước những xung đột không tránh
khỏi trong lãnh vực kinh tế và xã hội. Như vậy ta có thể hòa mình vào những
tình trạng mới mà không làm giảm bớt phẩm giá siêu việt của con người nơi chính
bản thân mình, cũng như nơi những đối thủ của mình, và tìm được con đường dẫn
tới những giải quyết đúng đắn.
Sau 100 năm, giá trị của một đường hướng như vậy đã tạo cho tôi cơ
hội đóng góp vào việc soạn thảo một giáo lý kitô giáo về xã hội. Trong số những
yếu tố cốt yếu của việc “tái loan báo tin mừng”, hiện đang hết sức cần thiết
cho thế giới, và nhiều lần tôi đã nhấn mạnh, phải kể đến việc loan báo một giáo
lý của Giáo hội về vấn đề xã hội thích hợp, hôm nay cũng như thời Đức Lêô XIII,
hầu đưa ra một hướng đi tốt đẹp giải đáp được những thách đố lớn lao của thời
đại hiện nay trong bối cảnh các ý thức hệ đang dần dần mất đi ảnh hưởng. Cũng
như thời đó, hiện nay phải lập lại rằng không có một giải pháp đích thực cho “vấn
đề xã hội” ở ngoài tin mừng, và mặt khác, “những vấn đề mới” có thể tìm được
trong tin mừng, là môi trường sự thật cho mình và sự thẩm định luân lý thích
hợp.
6. Quyền lợi của người lao động.
Khi chủ trương chiếu một ánh sáng vào cuộc xung đột giữa tư bản và
lao động, Đức Lêô XIII khẳng định những quyền căn bản của người lao động. Vì
thế, chìa khóa để đọc bản văn của Đức Giáo hoàng là chính phẩm giá của người
lao động, và do đó phẩm giá của lao động được định nghĩa là “hoạt động của con
người nhằm thảo mãn những nhu cầu của cuộc sống, đặc biệt để duy trì sự sống”[12]. Đức Giáo
hoàng xác định tính cách “cá vị” của lao động, bởi vì “sức mạnh của lao động
gắn liền với con người, và thuộc riêng về con người thực hiện lao động đó, và
là sở hữu của họ”[13]. Như thế,
lao động nằm trong ơn gọi của mọi người, con người tự bày tỏ và tự thể hiện qua
hoạt động lao tác, đồng thời lao động có một chiều kích xã hội, do mối tương
quan mật thiết với gia đình cũng như với công ích, “bởi vì người ta có thể
khẳng định không sai lầm rằng lao động của thợ thuyền là nguồn gốc sự giàu có
của nhà nước”[14]. Đó là những
điều mà tôi đã lấy lại và khai triển trong thông điệp LE (lao động)[15].
Chắc chắn có một nguyên tắc quan trọng khác, đó là nguyên tắc về
“quyền tư hữu”[16]. Thông điệp
đã khai triển nhiều về vấn đề này, điều đó cho thấy vấn đề có tầm quan trọng
riêng. Đức Giáo hoàng ý thức rõ ràng quyền tư hữu không phải là một giá trị
tuyệt đối và Người không quên công bố những nguyên tắc bổ sung không thể thiếu,
chẳng hạn nguyên tắc tài nguyên trái đất phải dành cho mọi người[17].
Vả lại, nếu thực sự kiểu tư hữu mà Đức Giáo hoàng đã đặc biệt đề
cập đến là sở hữu đất đai[18], thì ngày
nay, các lý lẽ đưa ra để bảo vệ quyền tư hữu, vẫn giữ được giá trị của nó,
nghĩa là để khẳng định quyền chiếm hữu những gì cần thiết cho việc phát triển
cá nhân và gia đình, cho dù hình thức thực sự của quyền này như thế nào. Phải
khẳng định quyền đó một lần nữa trước những thay đổi mà chúng ta đang chứng
kiến trong những hệ thống xã hội đã chấp nhận nguyên tắc sở hữu tập thể các
phương tiện sản xuất, và cả trước những tình trạng ngày càng gia tăng tình
trạng nghèo khổ, hay đúng hơn, trước những sự chối bỏ quyền tư hữu tại nhiều
miền trên thế giới. Kể cả những miền trong đó những hệ thống xã hội xây dựng
trên sự khẳng định quyền tư hữu đang chiếm ưu thế. Tiếp theo những thay đổi đó,
và sự nghèo khổ triền miên, cần phải có sự phân tích vấn đề một cách sâu xa
hơn, điều này sẽ được đề cập đến sau.
7. SỰ CẦN THIẾT CỦA CÁC NGHIỆP ĐOÀN
Thông điệp của Đức Lêô XIII cũng khẳng định những quyền khác tương
quan mật thiết với quyền tư hữu, khi Đức Giáo hoàng quả quyết chúng vốn có
trong con người và bất khả di nhượng. Trong số những quyền này, “quyền tự nhiên
của con người” trong các việc lập các hiệp hội tư chiếm địa vị hàng đầu, vì Đức
Giáo hoàng đã khai triển rộng rãi quyền đó và dành cho nó một tầm mức quan
trọng, trước hết , đó là quyền sáng lập các nghiệp đoàn giữa các chủ nhân xí nghiệp
và thợ thuyền hay giữa các thợ thuyền mà thôi[19]. Ở đây,
người ta nắm được động lực khiến Giáo hội bênh vực và phê chuẩn việc sáng lập
những tổ chức quen gọi là nghiệp đoàn, chắc chắn không do thành kiến mang tính
ý thức hệ hay chiều theo não trạng giai cấp, nhưng vì liên hiệp với nhau là một
quyền tự nhiên của con người, và do đó, là một quyền có trước khi được xã hội
chính trị nhìn nhận. Thực vậy, “nhà nước được lập ra là để bảo vệ, chứ không
phải để tiêu diệt quyền tự nhiên. Khi ngăn cấm những Hiệp hội như thế, nhà nước
tự chống lại chính mình”[20].
Ngoài việc đã minh nhiên nhìn nhận quyền nói trên - nên nhấn mạnh
điều này - đối với người thợ, hay nói theo từ ngữ của Đức Giáo hoàng : “dành
cho những người vô sản”, Đức Giáo hoàng còn khẳng định rõ rệt những quyền như
“giới hạn giờ lao động”, nghỉ ngơi chính đáng và đối xử đặc biệt đối với trẻ em
và phụ nữ[21] trong
những gì liên hệ đến loại công việc và thời gian làm việc.
Nếu chúng ta nhớ lại những gì lịch sử đã cho chúng ta biết về
những thực hành đã được chấp nhận, hay ít là không bị luật pháp ngăn cấm trong
lãnh vực các khế ước đã được thông qua, mà không chút bảo đảm về thời khóa
biểu, về điều kiện vệ sinh của công việc, cũng không tôn trọng tuổi tác hay
phái tính của những ứng viên xin việc làm, thì chúng ta sẽ hiểu rõ những nghiêm
khắc trong lời của Đức Giáo Hoàng. Người viết : “Thật không công bình, cũng
chẳng có nhân bản, nếu đòi hỏi con người một công việc làm cho lý trí đần độn
và có thể ra yếu nhược do mệt mỏi quá sức”. Và một cách chi tiết hơn, khi bàn
đến khế ước có mục đích thể hiện “những tương quan lao động” nói trên, Người
quả quyết: “Trong mọi hợp đồng giữa chủ và thợ, cần phải ghi điều kiện minh
nhiên hay mặc nhiên” rằng cần sắp xếp một thời gian nghỉ ngơi thích hợp tương
ứng với “sức lực tiêu hao trong lao động”, rồi Người kết luận : “Một khế ước đi
ngược lại sẽ là vô luân”[22].
8. Quyền có đồng lương chính đáng.
Ngay sau đó, Đức Giáo hoàng công bố một quyền khác của người lao
động với tư cách là con người. Đó là quyền có “đồng lương chính đáng”, quyền
này không thể để tùy “sự tự do đồng ý của các bên đến nỗi người chủ thuê thợ,
sau khi đã trả tiền lương như đã thỏa thuận, dường như đã xong hợp đồng và không
còn trách nhiệm nào khác nữa”[23]. Nhà nước -
như thời đó người ta nói - không có quyền can thiệp vào việc quyết định các khế
ước đó, ngoài việc bắt thực hiện những gì đã thỏa thuận rõ ràng. Một quan niệm
như thế trong tương quan giữa chủ và thợ, hoàn toàn có tính cách thực dụng và
bị thúc đẩy do cá nhân chủ nghĩa hẹp hòi đã bị thông điệp phê phán nặng nề là
đi ngược lại hai đặc tính của lao động, tức là có tính cá vị và cần thiết. Thực
vậy, nếu lao động xét như của con người, thì thuộc về khả năng và sức lực mà
mọi người được tự do sử dụng; xét như là điều cần thiết, lao động được chi phối
do bổn phận nặng nề của mỗi người là “duy trì sự sống”; “từ bổn phận này, Đức Giáo
hoàng kết luận, thiết yếu nảy sinh quyền tìm kiếm những gì giúp mình có thể
sống, những cái mà người nghèo chỉ có thể kiếm được nhờ đồng lương do lao động
của mình”[24].
Tiền lương phải đủ để nuôi sống người thợ và gia đình của họ. Nếu
người lao động “bị ép buộc do sự cần thiết hay bị thúc đẩy do sợ hãi một điều
xấu hơn, phải chấp nhận những điều kiện rất khắc nghiệt, mà họ không thể từ
chối vì những điều kiện do ông chủ hay người tạo công ăn việc làm cho họ áp
đặt, khi ấy, họ phải chịu cưỡng bức ngược với lẽ công bằng”[25].
Ước mong rằng những dòng chữ đó, được viết vào lúc đang phát triển
cái mà người ta gọi là “chủ nghĩa tư bản dã man”, ngày nay không cần phải lấy
lại và lặp lại với cùng một giọng nghiêm khắc ! Đáng tiếc, cả ngày hôm nay nữa,
vẫn còn những bản khế ước giữa ông chủ và thợ không biết đến sự công bằng sơ
đẳng nhất trong vấn đề lao động của người thợ vị thành niên hay của phụ nữ về
thời gian làm việc, về những điều kiện vệ sinh trong nơi làm việc và về đồng
lương chính đáng. Điều đó vẫn xảy ra cho dù đã có các tuyên ngôn và các công
ước quốc tế[26], và cả luật
pháp của nhiều nhà nước. Đức Giáo hoàng đã quy cho “chính quyền” “bổn phận khắt
khe” phải chăm sóc phúc lợi của người lao động cho chu đáo, bởi vì nếu chính
quyền không thực hiện điều đó, sẽ xúc phạm đến công lý, và Người không ngần
ngại gọi là “công bằng phân phối”[27].
9. Quyền tự do tôn giáo
Thêm vào những quyền đó, Đức Lêô XIII còn nêu ra một quyền khác
nữa, vẫn luôn liên quan đến thân phận người lao động mà tôi muốn nhắc lại do
tầm quan trọng của nó: quyền tự do thi hành nhiệm vụ tôn giáo của mình. Đức
Giáo hoàng đã tuyên bố rõ ràng quyền này trong bối cảnh những quyền lợi và
nhiệm vụ khác của thợ thuyền, cho dù, trong bầu không khí chung, ngay từ thời
đó, người ta đã cho rằng có một số vấn đề hoàn toàn thuộc về lãnh vực đời sống
riêng tư. Đức Thánh cha khẳng định sự cần thiết của việc nghỉ ngày chủ nhật, để
nhắc cho con người nhớ tới những thiện hảo thiêng liêng và trách nhiệm tôn thờ
Đấng Tối Cao[28]. Không ai
được tước quyền đó của con người, một quyền bắt nguồn từ giới luật nền tảng,
Người viết : “Không một ai được xúc phạm tới phẩm giá đó của con người mà không
bị trừng phạt, một phẩm giá mà chính Thiên Chúa cũng đã hết sức tôn trọng”. Vì
thế, Nhà Nước phải bảo đảm cho thợ thuyền được thể hiện quyền tự do đó[29].
Trong khẳng định rõ ràng trên đây, người ta không lầm khi nhận
thấy hàm chứa nguyên lý về quyền tự do tôn giáo, là quyền mà kể từ đó đã trở
thành đối tượng của nhiều tuyên ngôn và công ước quốc tế trang trọng[30], không kể
Tuyên ngôn nổi tiếng của Công Đồng Vat.II và nhiều giáo huấn của tôi[31]. Về điều
này, chúng ta phải tự hỏi những qui định luật pháp hiện hành và các thực hành
trong các xã hội kỹ nghệ hôm nay có giúp thực sự bảo đảm thi hành quyền căn bản
được nghỉ ngày chủ nhật hay không ?
10. Vai trò của nhà nước.
Một dữ kiện quan trọng khác là, rất phong phú về giáo huấn cho
thời đại chúng ta, đó là quan niệm về tương quan giữa nhá nước và các công dân.
Thông điệp Tân Sự phê phán hai hệ thống xã hội và kinh tế, tức là chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tự do. Thông điệp dành phần mở đầu để phê phán chủ nghĩa xã
hội khi tái khẳng định quyền tư hữu. Ngược lại không có đoạn nào dành riêng cho
chủ nghĩa tự do, nhưng - và điều này đáng cho chúng ta lưu ý - những phê phán
về chủ nghĩa tự do nằm ở phần bàn về đề tài những bổn phận của Nhà Nước[32]. Nhà Nước
không thể chỉ quan tâm đến việc “bảo vệ một số công dân”, những người giàu có
và sung túc, mà bỏ rơi “số công dân khác”, là những người chắc chắn đại diện
cho đa số lớn lao trong xã hội. Nếu không sẽ làm tổn thương đến sự công bằng đã
phải trả cho mọi người những gì thuộc về họ. “Nhưng trong khi bảo vệ quyền lợi
riêng phải quan tâm đặc biệt đến những người hèn kém, nghèo khổ. Giới giàu có,
mạnh thế về của cải, ít cần sự bảo vệ của chính quyền hơn; còn giới nghèo, vì
không có tiền bạc để che chở cho mình, nên nương tựa nhiều vào sự che chở của
nhà nước. Vì thế, Nhà nước phải chăm sóc và lưu tâm đặc biệt đến những người
lao động thuộc đám đông những người thua thiệt”[33].
Những đoạn văn này ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị, nhất là khi
đối diện với những hình thức nghèo nàn mới đang hiện hữu trong thế giới, vì lẽ
những khẳng định quan trọng như thế hoàn toàn không tùy thuộc vào một quan niệm
nhất định về nhà nước, cũng không lệ thuộc vào một lý thuyết chính trị đặc thù
nào. Đức Giáo hoàng nhắc lại nguyên lý sơ đẳng của mỗi tổ chức chính trị lành
mạnh : trong một xã hội, cá nhân nào càng dễ tổn thương thì họ càng cần được
những người khác giúp đỡ và lưu tâm, nhất là được sự giúp đỡ của chính quyền.
Như thế, Nguyên tắc liên đới, như người ta thường nói ngày nay, mà
trong thông điệp SRS tôi đã nhắc tới[34], giá trị của
nó trong trật tự của mỗi quốc gia cũng như trật tự quốc tế, là một trong những
nguyên tắc nền tảng của quan niệm kitô giáo về tổ chức chính trị và xã hội.
Nguyên tắc đã nhiều lần được Đức Lêô XIII phát biểu với từ ngữ “tình bạn”, mà
chúng ta đã thấy trong triết học Hy lạp. Đức Piô XI đã gọi bằng một danh từ ý
nghĩa không kém là “bác ái xã hội”, trong lúc Đức Giáo hoàng Phaolô VI, khi mở
rộng quan điểm đó theo những chiều kích hiện đại khác nhau của vấn đề xã hội,
đã gọi là “văn minh của tình yêu”[35].
11. Giáo hội đứng về phía người nghèo.
Khi đọc lại thông điệp RN trong bối cảnh thời đó chúng ta có thể
lưu ý đến mối quan tâm cũng như hành động liên lỷ của Giáo hội nhằm nâng đỡ
những lớp người được Chúa Giêsu yêu thương hơn. Nội dung của bản văn này là một
chứng từ tuyệt vời về tính liên tục trong Giáo hội, của điều mà người ta gọi là
“lựa chọn ưu tiên về phía người nghèo”, một sự lựa chọn được định nghĩa như là
một “hình thức ưu tiên đặc biệt trong thực hành Đức Ái kitô giáo"[36]. Như thế,
thông điệp về “vấn đề thợ thuyền” là một thông điệp về người nghèo, và về điều
kiện thê thảm mà tiến trình mới trong kỹ nghệ hóa thường là tàn bạo, đã dồn một
số rất đông con người vào tình trạng đó. Cả ngày nay nữa, trong phần lớn thế
giới, những tiến trình như thế trong biến chuyển kinh tế, xã hội, chính trị vẫn
nảy sinh ra những tai ương tương tự.
Nếu Đức Lêô XIII phải lêu gọi tới nhà nước để cứu vãn hoàn cảnh
của người nghèo theo sự công bằng, thì Người làm điều đó cũng vì Người nhìn
nhận một cách chính đáng rằng Nhà Nước có bổn phận lo lắng cho công ích, và liệu
sao cho mỗi lãnh vực trong sinh hoạt xã hội, kể cả lãnh vực kinh tế, đều góp
phần vào việc cổ võ công ích, trong khi vẫn tôn trọng sự tự lập chính đáng của
mỗi lãnh vực. Tuy nhiên, theo Đức Lêô XIII, không nên kết luận rằng, giải pháp
cho vấn đề xã hội trong mọi trường hợp đều do nhà nước. Ngược lại, Đức Giáo
hoàng nhiều lần nhấn mạnh tới những giới hạn cần thiết trong sự can thiệp của
nhà nước, và nhấn mạnh tới bản chất công cụ của nhà nước, vì cá nhân, gia đình
và xã hội là những thành phần có trước nhà nước, và Nhà Nước hiện hữu là để bảo
vệ những quyền lợi riêng của họ mà không khi nào được đàn áp họ[37].
Ai cũng biết tính cách thời sự của những suy tư này. Cần bàn lại
đề tài quan trọng này liên quan đến những giới hạn vốn thuộc về bản chất của
nhà nước ở một đoạn sau. Các điểm được nhấn mạnh, mặc dù không phải là những
điểm duy nhất được thông điệp bàn tới, nằm trong tính liên tục của giáo huấn
Giáo hội về vấn đề xã hội, và được soi sáng do một quan niệm lành mạnh về quyền
tư hữu, về lao động, về phát triển kinh tế, về bản chất của nhà nước, và nhất
là về chính con người. Những đề tài khác sẽ được đề cập tiếp theo khi bàn đến
một số khía cạnh của thực tại hiện nay, nhưng ngay bây giờ, cần lưu ý rằng,
điều làm nên cái nền, và một cách nào đó, hướng dẫn cho thông điệp RN và cho
toàn bộ giáo lý của Giáo hội về vấn đề xã hội, đó là quan niệm đúng đắn về con
người, về giá trị độc nhất của họ, trong tầm mức con người là tạo vật duy nhất
trên trái đất được Thiên Chúa muốn vì chính họ”[38]. Trong con
người, Thiên Chúa đã khắc ghi hình ảnh của Người, tạo dựng họ giống như Người
(x St 1,26) khi ban cho con người một phẩm giá vô song, thông điệp nhiều lần
nhấn mạnh tới điều đó. Thực vậy, bên trên những quyền lợi mà con người được
hưởng khi làm việc còn có những quyền lợi không tương ứng với bất cứ hoạt động
nào của con người, nhưng phát xuất từ phẩm giá chính yếu của con người.
Chương II :
HƯỚNG TỚI NHỮNG ĐIỀU MỚI MẺ CỦA NGÀY HÔM NAY.
12. Những dữ kiện của Đức Giáo hoàng Lêô XIII
thông điệp RN sẽ không được kỷ niệm một cách xứng hợp nếu chúng ta
không để ý đúng mức đến hoàn cảnh hiện tại. Nội dung của thông điệp đã gợi lên
suy tư đó; thực vậy, bối cảnh lịch sử và những dữ kiện của thông điệp đã tỏ ra
chính xác lạ lùng, dưới ánh sáng của những biến cố sau này.
những dữ kiện xảy ra vào những tháng cuối năm 1989 và đầu năm 1990
đã đặc biệt xác nhận điều đó. Những sự kiện này kể cả những biến đổi triệt để
theo sau, chỉ có thể giải thích được nhờ dựa vào những hoàn cảnh có trước, là
những hoàn cảnh đã cô đọng hay thể chế hóa cách nào đó, những tiên liệu của Đức
Lêô XIII và những dấu chỉ ngày càng gây lo ngại mà các Vị kế nghiệp của Người
đã nhận ra. Quả thật, Đức Giáo hoàng Lêô XIII đã thấy trước những hậu quả tiêu
cực dưới mọi khía cạnh : chính trị, xã hội và kinh tế - của một cơ chế xã hội
như “chủ thuyết xã hội” đề nghị; chủ thuyết này lúc bấy giờ còn là một triết
thuyết xã hội và một phong trào ít nhiều cơ cấu hóa. Người ta có thể ngạc nhiên
vì Đức Giáo hoàng đã khởi đầu từ “chủ thuyết xã hội” để phê bình những giải
pháp được đề nghị về “vấn đề thợ thuyền”, lúc mà chủ thuyết xã hội chưa có được
hình thức một nhà nước mạnh mẽ và đầy thế lực, có quyền sử dụng mọi tài nguyên
như sau này. Tuy nhiên Đức Giáo hoàng đã lượng định rất đúng mối nguy cơ đối
với quần chúng, do lối trình bày hấp dẫn về một giải pháp vừa đơn giản vừa
triệt để cho “vấn đề thợ thuyền” thời ấy. Điều đó càng đúng hơn nữa nếu để ý
đến tình trạng bất công đang dồn ép những đám đông quần chúng vô sản tại những
quốc gia mới được kỹ nghệ hóa.
Ở đây cần ghi nhận hai điều : một đàng là sự sáng suốt đặc biệt để
có thể nhận thức một cách sâu sắc, tình cảnh thực sự của những người vô sản gồm
đàn ông, đàn bà và trẻ em...; đàng khác là một nhận định không kém phần minh
bạch, để có thể phân biệt được cái xấu trong một giải pháp mà bên ngoài là đảo
ngược tình trạng người giàu người nghèo, nhưng trong thực tế lại gây thiệt hại
cho chính những người mà người ta hứa giúp đỡ. Hóa ra vị thuốc còn tệ hơn căn
bệnh. Khi nêu rõ bản tính của chủ thuyết xã hội thời ấy vốn chủ trương tước bỏ
quyền tư hữu, Đức Lêô XIII đã đề cập đến trọng tâm của vấn đề.
Chúng ta chú ý đọc lại lời Đức Giáo hoàng : “Để sửa chữa một điều
xấu là việc phân phối các của cải một cách bất công, và sự khốn cùng của những
người vô sản, những người chủ trương thuyết xã hội đã thúc đẩy người nghèo đến
chỗ ghen tị với những người giàu có. Họ chủ trương dẹp bỏ quyền tư hữu, của cải
đều là của chung mọi người... Thế nhưng một lý thuyết như vậy nếu được áp dụng,
thay vì có thể chấm dứt sự xung đột, thì lại làm hại cho người thợ thuyền. vả
lại chủ trương này cũng hoàn toàn bất công, vì xâm phạm đến những sở hữu chủ
hợp pháp, làm biến tính chức năng của nhà nước và đảo lộn tận gốc rễ toàn bộ cơ
cấu xã hội”[39]. Không thể
nào vạch rõ hơn nữa những tai họa xảy ra do việc thiết lập loại chủ thuyết xã
hội này như một hệ thống nhà nước, với tên gọi là “chủ thuyết xã hội hiện
thực”.
13. Sai lầm căn bản của chủ thuyết xã hội. Bây giờ chung ta đào
sâu suy tư và cũng quy chiếu với tất cả những gì đã được đề cập đến trong các
thông điệp LE và SRS, ta phải thêm rằng sai lầm căn bản của “chủ thuyết xã hội”
là ở quan niệm về con người. Thực vậy, chủ thuyết này coi cá nhân chỉ đơn giản
là một yếu tố, một phần tử trong cấu trúc xã hội, đến nỗi điều thiện hảo của
mỗi người hoàn toàn tùy thuộc vào hoạt động của bộ máy kinh tế và xã hội, trong
khi mặt khác, chủ thuyết đó cho rằng chính thiện hảo cá nhân ấy cũng có thể có
được mà không cần đến lựa chọn tự do của cá nhân, không cần quyết định duy
nhất, tuyệt đối và có trách nhiệm trước điều thiện hay điều ác. Như thế, con
người chỉ còn là một tổng hợp những tương quan xã hội, và lúc ấy không còn quan
niệm con người như một chủ thể có quyền tự quyết về luân lý, nhờ đó con người
xây dựng nên trật tự xã hội. Từ quan niệm sai lầm về con người như thế đã đi
đến sự lầm lạc về luật xác định lãnh vực thực hiện tự do, cũng như phủ nhận
quyền tư hữu. Thực vậy, con người bị tước mất những gì có thể gọi là “của
mình”, mất khả năng mưu sinh nhờ sáng kiến của mình, đi đến chỗ lệ thuộc vào bộ
máy xã hội và vào những người kiểm soát bộ máy đó, điều này khiến cho con người
gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận thức phẩm giá của mình và cản trở việc
tiến tới sự thiết lập một cộng đồng nhân loại đích thực.
Ngược lại, quan niệm của kitô giáo về con người tất yếu đưa đến
cái nhìn đúng đắn về xã hội. Theo thông điệp RN và toàn bộ học thuyết của Giáo
hội về xã hội, thì tính chất xã hội của con người không bị tiêu tan đi trong
nhà nước nhưng được thể hiện trong những nhóm trung gian khác nhau, từ gia đình
đến những nhóm kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa. những nhóm này, phát xuất
từ chính bản chất con người, vẫn có quyền tự quyết riêng - luôn luôn trong
khuôn khổ lợi ích chung. Đó là điều chúng tôi gọi là tính “ngôi vị” của xã hội,
tính cách này đã bị “chủ nghĩa xã hội hiện thực” xóa bỏ cùng với tính ngôi vị
của cá nhân[40].
Nếu sau đó, người ta hỏi từ đâu nảy sinh quan niệm sai lầm như thế
về tính cách ngôi vị của con người và tính cách ngôi vị của xã hội, thì phải
trả lời rằng nguyên nhân đầu tiên là thuyết vô thần. Chính qua việc đáp trả lời
mời gọi của Thiên Chúa hàm ngụ trong các sự vật, mà con người ý thức được phẩm
giá siêu việt của mình. Mỗi người phải đáp trả vì trong lời đáp trả ấy con
người đạt tới đỉnh cao nhân tính của mình, và không một bộ máy xã hội hay một
chủ thể cộng đồng nào có thể thay thế được. Việc phủ nhận Thiên Chúa cắt đứt
con người khỏi gốc rễ của mình, và vì vậy khuyến khích việc tổ chức lại trật tự
xã hội mà không đếm xỉa gì đến phẩm giá và trách nhiệm của ngôi vị.
Vả lại thuyết vô thần mà ta nói đến ở đây, có liên hệ mật thiết
với chủ trương duy lý của nền triết học ánh sáng, chủ trương này quan niệm thực
tại con người và xã hội một cách máy móc. Như vậy người ta phủ nhận trực giác
chung cuộc về tầm mức vĩ đại thực sự của con người, phủ nhận siêu việt tính của
con người trong tương quan với thế giới sự vật, phủ nhận sự mâu thuẫn con người
cảm thấy trong tâm hồn giữa ước vọng sự thiện sung mãn và sự bất lực của mình
để đạt được sự thiện đó, và nhất là phủ nhận sự cần thiết của ơn cứu độ phát
xuất từ đó.
14. Thuyết vô thần là nguồn gốc đấu tranh giai cấp.
cũng chính do nguồn gốc thuyết vô thần này đã phát sinh sự lựa
chọn những phương thế riêng biệt của chủ nghĩa xã hội mà thông điệp RN đã lên
án. Đó là cuộc đấu tranh giai cấp. Dĩ nhiên, Đức Giáo hoàng không chủ trương
kết án mọi xung đột xã hội dưới bất cứ hình thức nào: Giáo hội hiểu rằng những
xung đột về quyền lợi giữa những nhóm xã hội khác nhau vốn không thể tránh được
trong lịch sử, và kitô hữu phải thường xuyên coi lập trường về vấn đề đó một
cách dứt khoát và hợp lý. Vả lại, thông điệp LE đã công nhận vai trò tích cực
của xung đột khi nó mang tính chất của một cuộc “đấu tranh vì công bình xã hội”[41], và trong
thông điệp Quadragesimo anno (năm thứ 40) chúng ta đọc thấy : “Thật thế, sự đấu
tranh giai cấp, khi gạt bỏ những hành vi bạo lực và thù ghét lẫn nhau, sẽ dần
dần biến thành một cuộc tranh luận chính đáng, đặt nền tảng trên việc tìm kiếm
công lý”[42].
Đúng hơn, điều bị kết án trong cuộc đấu tranh giai cấp đó là quan
niệm về sự xung đột, mà không lưu ý đến đạo đức hay pháp lý, từ chối tôn trọng
phẩm giá người khác (và vì thế không tôn trọng phẩm giá của chính mình); do đó
loại trừ sự dung hòa hợp lý, không tìm điều thiện chung của xã hội, mà chỉ tìm
kiếm lợi ích của đảng phái, và muốn triệt hạ những ai chống đối mình. Tóm tắt,
đó là lập lại trong lãnh vực xung đột nội bộ giữa các nhóm xã hội - chủ trương
“chiến tranh toàn diện” mà chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa đế quốc đã đề cao
trong lãnh vực các mối tương giao quốc tế. Chủ thuyết này thay vì tìm kiếm sự
quân bình chính đáng giữa lợi ích của các quốc gia khác nhau, thì lại tìm kiếm
ưu thế tuyệt đối cho phe đảng của mình bằng cách tiêu diệt sức đề kháng của đối
phương, dùng đủ mọi phương thế, kể cả dối trá khủng bố thường dân và những vũ khí
hủy diệt (được chế tạo vào đúng những năm ấy). Vậy đấu tranh giai cấp theo
thuyết Mác - xít và chủ nghĩa quân phiệt có chung một nguồn gốc : vô thần và
chủ trương khinh miệt nhân vị, vốn đề cao nguyên tắc sức mạnh hơn lẽ phải và
quyền lợi.
15. Bổn phận của nhà nước.
Như đã nói, thông điệp RN chống lại việc quốc hữu hóa các phương
tiện sản xuất vì làm cho mọi công dân chỉ còn là một bộ phận trong guồng máy
nhà nước, Thông điệp cũng dứt khoát phê phán quan niệm nhà nước chủ trương đặt
lãnh vực kinh tế hoàn toàn ra ngoài phạm vi quan tâm và hoạt động của mình.
Chắc chắn có một phạm vi hợp pháp để các hoạt động kinh tế co quyền tự trị, nhà
nước không nên can dự vào đó. Tuy nhiên, nhà nước có bổn phận xác định khuôn
khổ pháp luật giúp triển khai các tương giao kinh tế, và như thế bảo vệ được
những điều kiện tiên quyết của nền kinh tế tự do, một nền kinh tế gia đình và
sự bình đẳng giữa các thành phần, làm sao để thành phần này không vượt trổi hơn
thành phần kia đến độ trong thực tế biến nó thành nô lệ[43].
Về vấn đề này, thông điệp RN đề ra những cải tổ chính đáng, khả dĩ
phục hồi giá trị cho lao động như một hoạt động tự do của con người. Những cải
cách này giả thiết rằng xã hội và nhà nước lãnh trách nhiệm của mình đặc biệt
là để bảo vệ người lao động thất nghiệp trong một lịch sử điều này được thực
hiện theo hai được đồng quy : hoặc do những chính sách kinh tế nhằm bảo đảo một
sự phát triển quân bình và hoàn cảnh có công ăn việc làm đầy đủ, hoặc bằng
những bảo đảm chống lại nạn thất nghiệp và những chính sách thất nghiệp thích
hợp, để các công nhân trong những ngành nghề đang bị khủng hoảng dễ dàng chuyển
sang những hoạt động khác đang trên đà phát triển.
Ngoài ra, xã hội và nhà nước phải bảo đảm mức lương cân xứng để
người lao động và gia đình họ có thể sống được, cũng như có thể dành dụm để
tiết kiệm. điều này đòi hỏi phải nỗ lực bồi dưỡng cho công nhân nâng cao kiến
thức và khả năng, giúp cho công việc của họ thêm chất lượng và tăng sản phẩm
hơn nhưng cũng phải thường xuyên giám sát và có biện pháp thích hợp và pháp
luật để ngăn chặn những hiện tượng bóc lột đáng xấu hổ, nhất là gây thiệt hại
cho những người lao động thiếu thốn nhất, những người di cư hay những người
sống bên lề xã hội. Trong lãnh vực này, vai trò của các nghiệp đoàn có tính
cách quyết định, vì đoàn có nhiệm vụ thương thảo mức lương tối thiểu và những
điều kiện lao động.
Sau cùng, phải tôn trọng thời khóa biểu sinh sống của “con người”
trong việc lao động và nghỉ ngơi cũng như quyền bày tỏ nhân cách của họ trong
những môi trường lao động mà không được xâm phạm đến lương tâm và phẩm giá của
họ bất cứ cách nào. Cũng nên nhắc đến vai trò của các nghiệp đoàn, không chỉ là
những phương thế để thương lượng, mà còn là những “môi trường” bày tỏ nhân cách
: các nghiệp đoàn hữu ích cho việc phát triển một nền văn hóa đích thực về lao
động, và giúp cho người lao động tham gia vào sinh hoạt của xí nghiệp một cách
hoàn toàn nhân bản[44].
Nhà nước phải góp phần vào việc thực thi những mục tiêu này các
trực tiếp hoặc gián tiếp. Cách gián tiến và theo nguyên tắc hỗ trợ, là tạo điều
kiện thuận lợi cho tự do hoạt động kinh tế, nhờ đó có thể tạo ra nhiều công ăn
việc làm và nguồn tài sản phong phú. Cách trực tiếp và theo nguyên tắc liên
đới, để bảo vệ những người yếu kém nhất, là hạn chế phần nào quyền tự trị của
các thành phần nắm quyền quyết định về những điều kiện làm việc, và trong mỗi
trường hợp, bảo đảm cho người lao động thất nghiệp mức sống tối thiểu[45].
Thông điệp và giáo huấn về xã hội sau thông điệp đã gây nhiều ảnh
hưởng khác nhau và những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ảnh hưởng này là
nguồn gốc cho nhiều cuộc canh tân trong lãnh vực dự phòng xã hội, nghỉ hưu, bảo
hiểm, dự phòng tai nạn, tất cả đều nằm trong bối cảnh nhằm tôn trọng quyền của
người lao động nhiều hơn nữa[46].
16. Hoạt động của phong trào công nhân.
các nhà nước đã thực hiện được một phần những quộc cải tổ, nhưng
trong cuộc đấu tranh để đạt được những cải tổ ấy, hoạt động của phong trào công
nhân có một vai trò quan trọng. Phát sinh từ phản ứng của ý thức luân lý chống
lại những tình trạng bất công và tác hại, phong trào ấy phát triển thành một
hoạt động nghiệp đoàn và canh tân rộng rãi. Phong trào đó không phải là những ý
thức hệ xa vời, nhưng thiết thực đối với những nhu cầu thường ngày của người
lao động, và trong lãnh vực này nỗ lực của họ thường liên kết với nỗ lực của
kitô hữu nhằm nâng cao điều kiện sống của những người lao động.
Về sau, trong một mức độ nao đó, phong trào nói trên rõ ràng đã bị
ý thức hệ Mác - xít chi phối, thông điệp RN đã chống lại ý thức hệ này.
Chính những cuộc cải tổ này cũng là kết quả của một tiến trình tự
do nhằm tự tổ chức xã hội, với việc điều chỉnh những phương thế tăng cường sự
liên đới, thích hợp để nâng đỡ một sự tiến triển kinh tế tôn trọng những giá
trị của con người nhiều hơn. Ở đây, cần nhắc lại những hoạt động đa dạng, với
phần đóng góp đáng kể của các kitô hữu, từ đó đã đưa đến việc thành lập những
hợp tác xã sản xuất, tiêu thụ và tín dụng, thúc đẩy việc giáo dục cho dân chúng
và huấn nghệ, thử nghiệm những hình thức khác nhau để tham gia vào sinh hoạt
của xí nghiệp, và nói chung của xã hội.
Như vậy, khi nhìn lại quá khứ, nếu như có những lý do để tạ ơn
Thiên Chúa vì thông điệp quan trọng đã có âm hưởng mạnh mẽ nơi các tâm hồn, và
đã thúc đẩy tới lòng quảng đại tích cực, thì cũng phải nhìn nhận rằng, lời tiên
báo có tính ngôn sứ mà thông điệp phát biểu đã không được con người thời ấy đón
nhận trọn vẹn, và do đó đã phát sinh nhiều tai họa rất lớn lao.
17. Quan niệm về tự do.
Khi nối kết thông điệp này với toàn bộ giáo huấn phong phú của Đức
Giáo hoàng Lêô XIII[47], người ta sẽ
thấy, từ ăn bản, thông điệp vạch rõ những hậu quả do sự sai lầm có tầm mức rất
lớn trên lãnh vực kinh tế và xã hội. Như đã nói, sai lầm đó hệ tại một quan
niệm về tự do của con người muốn trốn tránh bổn phận tôn trọng quyền lợi của
người khác. Khi ấy, ý nghĩa tự do được hiểu là lòng yêu chính mình, đi đến việc
khinh thường Thiên Chúa và tha nhân, đó là một thứ tình yêu hướng đến sự khẳng
định lợi ích riêng tư vô giới hạn, và không để mình bị chi phối bởi bất cứ
nghĩa vụ nào về công lý.[48]
Những hệ quả ghê gớm của sai lầm này hiện rõ trong chu kỳ bi đát
của những cuộc chiến tranh làm rung chuyển cả Châu âu và cả thế giới từ
1914-1945. Đó là những cuộc chiến do chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa quốc gia
quá khích, và do những hình thức của chế độ cực quyền có liên cất với những chủ
nghĩa trên gây nên, đó là những cuộc chiến phát sinh từ cuộc đấu tranh giai
cấp, những cuộc nội chiến và chiến tranh ý thức hệ. Không có tác động ghê gớm
của lòng ghen ghét và thù hận, tích tụ do biết bao bất công trên bình diện quốc
tế, lẫn bên trong các quốc gia, thì đã không xảy ra những cuộc chín khốc liệt
như thế, trong đó các cường quốc tham gia với tất cả sức mạnh, trong đó người
ta không ngần ngại xâm phạm đến các quyền thiêng liêng nhất của con người, và
trong đó người ta thảo kế hoạch và thực hiện việc tận diệt nhiều dân tộc và
toàn bộ những nhóm xã hội. Ở đây chúng ta đặc biệt nhớ đến Dân tộc Do thái mà
số phận kinh hoàng của họ đã trở thành một biểu tượng của sự điên rồ mà con
người có thể sa vào khi họ chống lại Thiên Chúa.
Tuy nhiên, thù hận và bất công chỉ bao trùm toàn thể các quốc gia,
và chỉ thúc đẩy họ hành động một khi chúng được hợp thức hóa và được tổ chức do
các ý thức hệ đặt nền tảng trên chúng hơn là trên sự thật về con người[49]. Thông điệp
RN chống lại các ý thức hệ chủ trương thù hận, và đã trình bày các cách thức
dùng công lý để chấm dứt bạo lực và oán giận. Ước mong ký ức về những biến cố
khủng khiếp ấy hướng dẫn hoạt động của tất cả mọi người, nhất là của các vị
lãnh đạo các dân tộc ở thời đại chúng ta, trong lúc những bất công khác đang
nuôi dưỡng những mối thù hận mới, và ở chân trời đang xuất hiện những ý thức hệ
mới đề cao bạo lực.
18. Nguồn gốc của chiến tranh
Chắc chắn từ 1945, trên lục địa Châu đã im tiếng súng, tuy nhiên
chúng ta cần nhớ lại rằng hòa bình thực sự không bao giờ là kết quả của chiến
thắng quân sự, nhưng giả thiết phải loại bỏ những nguyên nhân gây ra chiến
tranh và đòi hỏi sự hòa giải đích thực giữa các dân tộc. Ngược lại trong suốt
nhiều nhiều năm qua, ở Châu Âu cũng như nhiều nơi trên thế giới, có tình trạng
không chiến tranh, chứ không phải là hòa bình thực sự. Một nửa lục địa này rơi
vào quyền lực của chế độ độc tài cộng sản, trong khi phần còn lại tự tổ chức để
bảo vệ chống lại loại nguy hiểm đó. Nhiều dân tộc mất quyền định đoạt về chính
mình, bị kiềm tảo trong những giới hạn của một đế quốc áp bức cố gắng hủy diệt
ký ức lịch sử và những nền văn hóa dân tộc có nguồn gốc lâu đời. Tiếp theo sự
chia cắt bạo tàn ấy, những đoàn người đông đảo bị cưỡng bách rời bỏ mảnh đất
của mình và bị đi lưu đày.
Cuộc chạy đua vũ trang điên cuồng đã ngốn hết những tài nguyên cần
thiết cho sự phát triển các nền kinh tế trong nước và cho việc giúp đỡ các quốc
gia cùng khổ nhất. Tiến bộ khoa học và kỹ thuật đáng lẽ phải góp phần vào việc
làm cho con người sống hạnh phúc hơn, lại biến thành công cụ chiến tranh. Khoa
học và kỹ thuật được sử dụng để sản xuất những vụ khí luôn hoàn hảo hơn và có khả
năng hủy diệt nhiều hơn, trong khi đó, người ta nại đến một ý thức hệ vốn là
một nền triết học đích thực đã bị xuyên tạc, nhằm cung cấp những biện chứng có
tính giáo điều cho một cuộc chiến tranh mới. Chiến tranh không chỉ được chờ đợi
và chuẩn bị, mà thực sự đang xảy ra tại những miền khác nhau trên thế giới và
gây ra những cuộc đổ máu lớn lao. Các văn kiện của Giáo hội và mới đây thông
điệp SRS[50]đã tố giác
chủ trương phân chia thành các khối hay đế quốc đối nghịch. Chủ trương đó đã
phóng đại và khai thác cách có hệ thống những cuộc tranh chấp và những mối bất
hòa tại các nước thuộc thế giới thứ ba để gây khói khăn cho đối phương.
Những nhóm cực đoan, là những người tìm cách giải quyết những xung
đột trên bằng vũ khí, lợi dụng chỗ dựa về chính trị và quân sự, nên được trang
bị vũ khí và huấn luyện về chín tranh, trong khi những người nỗ lực tìm kiếm
những giải pháp hòa bình và nhân bản bằng cách tôn trọng lợi ích hợp pháp của
tất cả mọi phe nhóm, lại bị cô lập và trở thành nạn nhân của các phe nhóm đối
nghịch. Nền hòa bình bấp bênh sau thế chiến II là một trong những lý do chính
của việc quân sự hóa nhiều quốc gia thuộc thế giới thứ ba và những cuộc chiến
huynh đệ tương tàn tại những quốc gia đó, sự lan tràn phong trào khủng bố và
những hành động ngày càng man rợ hơn của cuộc chiến tranh quân sự, chính trị.
Sau cùng, một cuộc chiến tranh nguyên tử đang đe dọa toàn thể thế giới có thể
dẫn đến việc hủy diệt nhân loại. Khoa học, khi được sử dụng vào những mục tiêu
quân sự, khoa học đã trao vũ khí tuyệt đối cho sự thù hận vốn được khuếch đại
bởi các ý thức hệ. Thế nhưng, chiến tranh có thể được kết thúc trong một cuộc
tự sát của nhân loại mà không co kẻ thắng người bại, và như thế, phải loại bỏ
lối lý luận đưa đến sự tự sát trên, tức là ý tưởng cho rằng đấu tranh tiêu diệt
đối phương, sự mâu thuẫn và cả chiến tranh nữa là những yếu tố làm nên sự tiến
bộ và đưa lịch sử tiến lên phía trước[51]. Nếu người
ta chấp nhận sự loại bỏ đó là cần thiết, thì sự lý luận về “cuộc chiến tranh
toàn diện” cũng như về “sự đấu tranh giai cấp” cần thiết phải được xét lại.
19. Hậu quả của chiến tranh
Nhưng vào cuối thế chiến II, một tiến trình như thế vẫn đang thành
hình trong tâm trí con người, và sự kiện đáng chú ý là sự bành trướng của chế
độ chuyên chế cộng sản trên hơn một nửa Châu Âu và một phần thế giới. Chiến
tranh, lẽ ra phải tái lập tự do và khôi phục quyền lợi của các dân tộc, thì lại
kết thúc mà không đạt được những mục tiêu ấy, nhưng ngược lại hiển nhiên phản
lại các mục tiêu ấy đối với nhiều dân tộc, nhất là những dân tộc đã phải chịu
đựng nhiều nhất trong chiến tranh. Có thể nói rằng, tình trạng như vậy đã gợi
lên những phản ứng khác nhau.
Trong nột số quốc gia và theo một vài quan điểm, người ta tham gia
vào một nỗ lực tích cực nhằm tái thiết, sau những hủy diệt của chiến tranh, một
xã hội dân chủ được gợi hứng bởi công bình xã hội, làm cho chủ nghĩa cộng sản
mất đi tiềm lực cách mạng phát xuất từ đám người bị bóc lột và áp bức. Cách
chung những cố gắng này tìm cách duy trì những bộ máy của thị trường tự do bằng
cách bảo đảm những điều kiện của một sự tiến triển kinh tế vững chắc và lành
mạnh, nhờ sự ổn định tiền tệ và an toàn trong những tương quan xã hội, nhờ đó
con người có thể dùng lao động mà kiến tạo một tương lai tốt đẹp cho chính mình
và cho con cái. Đồng thời, người ta tìm cách để những cơ cấu thị trường không
còn là điểm quy chiếu duy nhất của đời sống xã hội, và người ta muốn bắt những
bộ máy ấy phải phục tùng sự kiểm soát công khai được gợi hứng từ nguyên tắc của
cải trần thế được dành cho mọi người. Công ăn việc làm dồi dào, hệ thống an
ninh xã hội vững chắc, huấn nghệ, tự do lập hội và hoạt động mạnh mẽ của các
nghiệp đoàn, sự bảo trợ xã hội trong trường hợp thất nghiệp, những phương tiện
tham gia dân chủ vào đời sống xã hội, tất cả những điều ấy, trong bối cảnh như
thế làm cho lao động tránh khỏi hoàn cảnh trở thành một “hàng hóa” và bảo đảm khả
năng hoàn thành lao động cách xứng đáng.
Thứ đến, còn những thế lực xã hội khác và những trường phái tư
tưởng khác chống lại thuyết Mác - xít bằng việc thiết lập những hệ thống “an
ninh quốc gia”, những hệ thống này kiểm soát chặt chẽ toàn thể xã hội, để ngăn
cản sự xâm nhập của chủ thuyết Mác - xít. Bằng cách đề cao và gia tăng quyền
lực của nhà nước, những chế độ đó cố gắng bảo vệ dân tộc mình khỏi chủ nghĩa
cộng sản, nhưng, khi thực hiện việc đó, họ gặp phải nguy cơ trầm trọng là tiêu
hủy tự do và những giá trị của con người qua danh nghĩa chống cộng.
Sau cùng, một hình thức đáp ứng thực tiễn khác được đại diện bởi
xã hội sung túc, hay xã hội tiêu thụ. Hình thức này cố gắng vượt chủ thuyết
Mác xít trên lãnh vực hoàn toàn duy vật, chứng tỏ rằng một xã hội
thuộc thị trường tự do có thể làm thỏa mãn những nhu cầu vật chất cách hoàn hảo
hơn là chủ nghĩa cộng sản đã đảm bảo, nhưng đồng thời lại loại bỏ những giá trị
thiêng liêng. Trong thực tế, một phần, nếu thực sự, kiểu mẫu xã hội này cho
thấy thuyết Mác - xít không có khả năng kiến tạo một xã hội mới và tốt đẹp hơn,
phần khác, khi chối từ đạo đức, quyền lợi, văn hóa và tôn giáo có thực tại và
giá trị riêng của mình, kiểu mẫu xã hội này cũng giống thuyết Mác - xít khi
hoàn toàn giản lược con người vào lãnh vực kinh tế và sự thỏa mãn những nhu cầu
vật chất.
20. Chấm dứt chế độ thuộc địa.
Cũng trong thời gian này diễn ra một tiến trình gây xúc động là
“việc chấm dứt chế độ thuộc địa”, nhờ đó nhiều quốc gia đạt được hay tái lập
nền độc lập và chủ quyền tự quyết về chính mình. Tuy nhiên, với việc chính thức
chinh phục lại uy quyền tối thượng của quốc gia, những quốc gia này thường mới
chỉ ở khởi điểm của con đường xây dựng một nền độc lập thực sự. Thật vậy, những
lãnh vực kinh tế có tính quyết định vẫn còn nằm trong tay những xí nghiệp lớn
của ngoại quốc, những xí nghiệp này không chấp nhận liên kết bền vững với việc
phát triển của quốc gia đã tiếp đón họ, và chính sinh hoạt chính trị vẫn còn bị
các thế lực ngoại bang kiểm soát, đang khi đó bên trong biên giới quốc gia, vẫn
còn có những nhóm chủng tộc chưa hội nhập hoàn toàn vào một cộng đồng quốc gia
đích thực. Ngoài ra, còn thiếu một tập thể những công chức tài năng, có khả
năng quản trị guồng máy quốc gia cách đúng đắn và công bằng, đồng thời cũng
thiếu cán bộ quản lý kinh tế hữu hiệu và có trách nhiệm.
Trong hoàn cảnh đó, nhiều người nghĩ rằng thuyết Mác - xít có thể
cống hiến một con đường tắt để xây dựng dân tộc và quốc gia, và do đó đã thấy
xuất hiện những mẫu xã hội chủ nghĩa có đặc tính quốc gia riêng biệt. Những mẫu
này hòa lẫn với nhiều ý thức hệ được hình thành cách khác nhau tùy trường hợp:
những đòi hỏi chính đáng của việc bảo vệ quốc gia, những hình thức của chủ
nghĩa quốc gia, và cả của chế độ quân phiệt, những nguyên tắc rút ra từ những
nền văn hóa dân gian cổ truyền, đôi khi phù hợp với học thuyết xã hội của kitô
giáo, và những quan điểm của thuyết Mácxít Lêninít.
21. Tổ chức Liên Hiệp quốc.
Cuối cùng cần phải nhắc lại là sau thế chiến thứ II, và cũng để
phản ứng chống lại những điều khủng khiếp của nó, đã phổ biến một tâm thức mạnh
hơn về quyền con người, tâm thức này đã được nhìn nhận trong nhiều văn kiện
quốc tế khác nhau[52] và có
thể nói, trong việc kiến tạo một luật pháp quốc tế về quyền con người. Nòng cốt
của sự phát triển đó là tổ chức Liên Hiệp Quốc. Không chỉ có ý thức về quyền
của cá nhân được phát triển, mà cả ý thức về quyền của các quốc gia, trong khi
đó người ta thấy rõ hơn cần phải hành động để đem lại phương thức giải quyết
những bất quân bình trầm trọng giữa những vùng địa dư khác nhau trên thế giới,
mà theo một nghĩa, những bất quân bình này đã chuyển trọng tâm vấn đề xã hội từ
bối cảnh quốc gia sang bình diện quốc tế[53].
Trong lúc hài lòng về sự phát triển này, người ta cũng không thể
bỏ quên sự kiện là bản tổng kết toàn bộ những chính sách viện trợ khác nhau cho
việc phát triển không luôn luôn có tính cách tích cực. Ngoài ra, tại Liên Hiệp
Quốc cho đến nay, người ta vẫn chưa thành công trong việc tạo ra những cách
thức hữu hiệu, ngoài chiến tranh, để giải quyết những xung đột quốc tế, và có
lẽ đây là vấn đề cấp bách nhất mà cộng đồng quốc tế vần phải giải quyết.
Chương III
Năm 1989
22. Vai trò của Giáo hội
Căn cứ vào tình hình thế giới như chúng tôi vừa mô tả và đã được
trình bày cặn kẽ trong thông điệp SRS, chúng ta mới hiểu được tầm quan trọng
bất ngờ và đầy hứa hẹn của các biến cố xảy ra trong những năm gần đây. Mặc dù
các biến cố đó rõ rệt đạt tới cao điểm vào năm 1989 tại các quốc gia ở Trung và
Đông âu, nhưng chúng còn bao trùm cả một thời gian và không gian rộng hơn. Vào
những năm 80, tại nhiều quốc gia ở Châu Mỹ La tinh cũng như Châu Phi và Châu âu
người ta chứng kiến những chế độ độc tài và áp bức lần lượt sụp đổ. Những
trường hợp khác lại là mở đầu cho một chuyển biến, tuy khó khăn nhưng hiệu quả,
hướng tới các chính thể đề cao sự cộng tác và công lý nhiều hơn. Giáo hội đã
góp phần quan trọng, thậm chí có tính quyết định qua thái độ cổ võ bảo vệ việc
thăng tiến nhân quyền tại những môi trường chịu ảnh hưởng sâu đậm của một hệ tư
tưởng, trong đó những lập trường triệt để làm lu mờ ý thức chung về phẩm giá
con người, thì giáo hội khẳng định rõ ràng và mạnh mẽ rằng, mỗi người dù xác
tín cá nhân thế nào đi nữa, vẫn mang nơi mình hình ảnh Thiên Chúa, và như vậy
họ đáng được tôn trọng. Đại đa số dân chúng thường chấp nhận khẳng định này, và
điều đó đưa đến việc tìm kiếm những hình thức đấu tranh và những giải pháp chính
trị tôn trọng phẩm giá con người hơn.
Từ tiến trình lịch sử đó phát sinh những hình thức dân chủ mới đem
lại hy vọng một sự thay đổi trong những cơ cấu chính trị và xã hội bấp bênh,
đang gánh chịu hàng loạt những đau khổ do vô số bất công và hận thù, thêm vào
đó là một nền kinh tế thảm hại và những xung đột xã hội gay gắt. Cùng toàn thể
giáo hội, chúng tôi cảm tạ Thiên Chúa vì những chứng tá đôi khi rất anh dũng
của nhiều mục tử, nhiều cộng đoàn kitô giáo cũng như nhiều tín hữu, và nhiều
người thiện chí khác đã nêu lên trong những hoàn cảnh khó khăn đó; tôi nguyện
xin Chúa nâng đỡ những nỗ lực của mọi người nhằm xây dựng một tương lai tốt đẹp
hơn. Thực tế, đó là trách nhiệm không những của các công dân trong các quốc gia
nói trên, mà còn là của tất cả mọi kitô hữu và những người thiện chí. Điều đó
chứng tỏ rằng những vấn đề phức tạp nơi các dân tộc đó có thể giải quyết được
thông qua đối thoại và liên đới, mà không cần đến tranh đấu để triệt tiêu đối
phương, cũng chẳng cần đến chiến tranh.
23. Sự sụp đổ của các chế độ áp bức.
Trong số các nhân tố làm cho các chế độ áp bức bị sụp đổ có những
nhân tố đáng được nhắc đến đặc biệt. Chắc chắn, nhân tố có tính cách quyết định
đưa đến những thay đổi, đó là sự vi phạm quyền lao động. Không nên quên rằng
cuộc khủng hoảng cơ bản của các hệ thống chính trị tự coi mình là đại diện cho
giới thợ thuyền để nắm quyền cai trị, kể cả nền chuyên chính của giới công
nhân, bắt đầu từ những phong trào lớn ở Balan dưới danh nghĩa đoàn kết. Chính
quần chúng công nhân là những người đã khai trừ tính hợp pháp của hệ tư tưởng
cho là mình phát biểu nhân danh họ, và từ kinh nghiệm sống động và cực khổ
trong lao động và áp bức, chính họ là những người tìm lại được hầu như tái khám
phá những phát biểu và những nguyên tắc trong học thuyết xã hội của giáo hội.
Một sự kiện khác cần nhấn mạnh, đó là hầu như khắp nơi người ta có
thể làm cho một “khối” hay một đế quốc đi đến chỗ sụp đổ bằng những cuộc đấu
tranh ôn hòa chỉ dùng sự thật và công lý làm khí giới. Trong khi thuyết Macxit
cho rằng chỉ cần đẩy những mâu thuẫn xã hội lên đến cực điểm là có thể giải
quyết được những mâu thuẫn ấy bằng một cuộc đối đầu quyết liệt thì những cuộc
đấu tranh đưa thuyết Macxit đến chỗ sụp đổ, đều kiên trì sử dụng tất cả những
đường lối thương lượng, đối thoại và làm chứng cho sự thật, kêu gọi lương tri
của đối phương, và tìm cách thức tỉnh nơi họ ý thức chung về phẩm giá con
người.
Cứ theo bề ngoài thì chỉ có một cuộc chiến tranh khác mới có thể
đảo lộn trật tự ở Âu Châu có từ thế chiến thứ hai, và đã được hiệp ước Yalta
phê chuẩn. Thế nhưng, điều đó đã không cần nữa, nhờ hoạt động bất bạo động của
những người, dù không bao giờ chịu khuất phục bạo lực, nhưng vẫn biết tìm ra
trong mọi trường hợp đường lối hiệu nghiệm minh chứng cho sự thật. Điều đó đã
vô hiệu hóa đối phương, vì bạo lực bao giờ cũng dùng dối trá để biện minh cho
mình, và làm bộ, kể cả giả dối, là bảo vệ quyền lợi hay đối phó với mọi đe dọa
của người khác[54]. Một lần nữa
chúng tôi tạ ơn Thiên Chúa đã nâng đỡ tâm hồn con người giữa những thử thách
khó khăn, và cũng nguyện xin cho gương mẫu đó được phổ biến ở những miền khác
và trong những hoàn cảnh khác. Ước mong con người học biết đấu tranh cho công
lý mà không cần đến bạo động, bằng cách từ khước đấu tranh giai cấp trong những
xung đột nội bộ, và từ khước chiến tranh trong những xung đột quốc tế.
24. Những nguyên nhân của sự sụp đổ này.
Nhân tố thứ hai gây ra khủng hoảng chắc chắn là do hệ thống kinh
tế thiếu hiệu năng, và không nên coi đây chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà đúng hơn,
là hệ quả của sự vi phạm nhân quyền: quyền có sáng kiến, quyền tư hữu và quyền
tự do trong lãnh vực kinh tế. Thêm vào đó là chiều kích văn hóa và quốc gia:
không thể hiểu biết con người, nếu chỉ dựa trên lãnh vực kinh tế, cũng như
không thể xác định con người là gì nếu chỉ căn cứ vào việc họ thuộc về một giai
cấp nào đó. Ta hiểu biết con người một cách hoàn hảo hơn, nếu đặt con người vào
trong bối cảnh văn hóa của họ, bằng cách lưu ý đến ngôn ngữ, lịch sử của họ,
quan điểm của họ trước các biến cố nền tảng của đời sống, chẳng hạn như việc
chào đời, tình yêu, lao động, sự chết. Trọng tâm của mọi nền văn hóa là thái độ
của con người khi đối diện với mầu nhiệm vô cùng lớn lao : mầu nhiệm Thiên
Chúa. Tự căn bản, những nền văn hóa khác nhau của các dân tộc là những cách
thức khác nhau để giải quyết vấn đề ý nghĩa cuộc nhân sinh. Nếu loại bỏ vấn đề
này, thì nền văn hóa và đời sống luân lý của các quốc gia sẽ bị băng hoại. Vì
thế, cuộc đấu tranh bảo vệ lao động tự nó liên kết với cuộc đấu tranh cho nền
văn hóa và quyền lợi quốc gia.
Tuy nhiên nguyên nhân đích thực của những điều mới mẻ đó là sự
trống rỗng tâm linh do chủ thuyết vô thần gây ra, chủ thuyết này bỏ mặc những
thế hệ trẻ trong tình trạng vô phương hướng, và thường đưa họ - trong khi tất
yếu phải tìm kiếm căn tính và ý nghĩa cuộc đời của mình - đến chỗ tái khám phá
cội rễ tôn giáo trong nền văn hóa quốc gia của họ, thậm chí nhận ra được chính
con người Đức Kitô, như một câu trả lời đáp ứng một cách hiện thực lòng khao
khát chân lý và sự sống vốn có nơi thâm tâm con người. Sự tìm kiếm đó được
khích lệ nhờ chứng tá của những người - dù trong hoàn cảnh khó khăn và bị ngược
đãi - vẫn giữ lòng trung thành với Thiên Chúa. Thuyết Macxit quyết tâm tiêu diệt
khát vọng về Thiên Chúa nơi con người, nhưng kết quả cho thấy không thể làm như
thế mà không làm cho tâm hồn con người xáo trộn.
25. Cuộc giao tranh giữa thiện và ác.
Các biến cố xảy ra trong năm 1989 là một thí dụ nói lên thành công
của chủ trương dùng đường lối thương thuyết và tinh thần Tin Mừng trước một đối
phương nhất định bất chấp các nguyên tắc luân lý. Các biến cố đó là một lời
cảnh tỉnh cho những ai nhân danh chủ nghĩa hiện thực chính trị, muốn loại trừ
luật pháp và luân lý ra khỏi lãnh vực chính trị. Chắc chắn cuộc tranh đấu dẫn
đến các đổi thay trong năm 1989 đòi phải có sự sáng suốt, ôn hòa đau khổ và hy
sinh; theo một nghĩa nào đó, cuộc tranh đấu ấy phát sinh từ cầu nguyện, và có
lẽ không thể nghĩ tới nếu không có niềm tín thác vô biên vào Thiên Chúa, Chúa
tể của lịch sử, Đấng làm chủ cõi lòng con người. Chính vì biết liên kết những
đau khổ của riêng mình trong việc tìm kiếm chân lý và tự do, với đau khổ của
Đức Kitô trên thập giá mà con người có thể thực hiện được phép lạ hòa bình, và
có khả năng khám phá ra con đường, thường là chật hẹp, giữa một bên là sự hèn
nhát muốn đầu hàng sự dữ, và một bên là bạo lực tưởng là chiến đấu chống lại sự
dữ, nhưng kỳ thực chỉ làm cho sự dữ thêm trầm trọng.
Tuy nhiên, không thể không biết đến vô số hoàn cảnh chi phối cá
nhân trong việc sử dụng tự do để hành động; chắc chắn những hoàn cảnh ấy tác
động đến tự do, nhưng không định đoạt tự do. Chúng gây khó dễ cho việc sử dụng
tự do, nhưng không thể hủy diệt tự do. Theo quan điểm đạo đức, không những
người ta không được coi thường bản chất con người vốn được tạo dựng nên để
hưởng tự do, mà trên thực tế, cũng không thể làm như vậy được. Ở đâu xã hội
được tổ chức theo kiểu tùy tiện hạn chế hoặc thậm chí tước bỏ bầu khí thể hiện
tự do một cách hợp pháp, thì kết quả là đời sống xã hội dần dần tan rã và đi
đến chỗ suy xụp.
Hơn nữa, tuy được sáng tạo để hưởng tự do, nhưng con người lại
mang nơi bản thân mình thương tích của tội nguyên tổ luôn luôn lôi kéo con
người hướng về điều ác, vì thế con người cần đến ơn cứu độ. Giáo lý này không
những là một thành phần toàn vẹn trong mạc khải kitô giáo, mà còn có giá trị
quan trọng để khám phá chân lý, vì giúp ta hiểu được thực tại con người. Con
người hướng về điều thiện, nhưng cũng có thể làm điều ác. Con người có thể vượt
lên trên lợi lộc trước mắt, mà vẫn gắn bó với nó. Trật tự xã hội càng được ổn
định, khi càng lưu ý đến sự kiện này, và không đặt quyền lợi cá nhân đối nghịch
với quyền lợi xã hội xét như đoàn thể, nhưng đúng hơn tìm cách hòa hợp với
quyền lợi xã hội một cách hiệu quả. Thật vậy, nơi đâu quyền lợi cá nhân bị xã
hội tước đoạt, thì thay vào đó là một chế độ hà khắc nắm quyền kiểm soát một
cách quan liêu, làm cạn kiệt nguồn sáng kiến và sáng tạo. Khi người ta nghĩ
rằng mình nắm được bí quyết tổ chức một xã hội hoàn hảo không còn điều ác thì
họ cũng tưởng là có thể sử dụng mọi phương tiện, kể cả bạo lực và lừa dối, để
thực hiện tổ chức đó. Khi ấy chính trị trở thành một thứ “tôn giáo thế tục”, có
tham vọng xây dựng thiên đàng ngay ở trần gian này. Nhưng không có một xã hội
chính trị nào có quyền tự quyết và pháp luật của mình[55], lại có thể
lẫn lộn với Vương Quốc của Thiên Chúa. Trong Tin mừng, dụ ngôn hạt giống tốt và
cỏ lùng (xc Mt 13,24-30.36-43) dạy rằng chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tách
biệt những thần dân của Nước Trời khỏi những tôi tớ của ác thần, và điều phân
xử ấy sẽ xảy ra vào ngày thế mạt. Ngay lúc này, nếu tự cho mình là người có
quyền phán xét ấy, thì con người đã tiếm quyền Thiên Chúa và chống lại sự kiên
nhẫn của Người.
Nhờ hy lễ của Đức Kitô trên thập giá, chiến thắng của Nước Thiên
Chúa đã thành tựu một lần và có giá trị mãi mãi. Tuy nhiên, người kitô hữu vẫn
phải chiến đấu chống lại cám dỗ và sức mạnh của sự dữ. Chỉ khi nào lịch sử kết
thúc Chúa mới trở lại trong vinh quang để phán xét lần cuối cùng (x. Mt 25,31),
và thiết lập trời mới đất mới (x. 2Pr 3,13; Kh 21,1). Nhưng bao lâu còn thời
gian, cuộc chiến giữa thiện và ác vẫn còn tiếp diễn ngay trong tâm hồn con
người.
Những gì Kinh thánh dạy cho ta biết về thiên chức của nước Thiên
Chúa không phải là không có hệ quả đối với đời sống các xã hội trần thế, những
xã hội này - như tên gọi - thuộc về những thực tại trong thời gian, và vì thế,
bất toàn và tạm thời. Nước Thiên Chúa hiện diện trong thế gian và không thuộc
về thế gian, nước ấy soi sáng trật tự con người, trong khi sức mạnh ân sủng
thấm nhập và làm cho trật tự đó sống động. Như thế, một khi hiểu rõ những đòi
hỏi của một xã hội xứng đáng với con người, thì sửa chữa được những sai lầm,
tăng cường lòng can đảm hành động vì điều thiện. Cùng với các người thiện chí,
các kitô hữu, nhất là giáo dân, được kêu gọi thi hành trách vụ làm cho tin mừng
sinh động nơi thực tại của con người.[56]
26. Giáo hội và phong trào thợ thuyền.
Các biến cố trong năm 1989 chủ yếu xảy ra ở các nước Đông và Trung
Âu. Tuy nhiên, các biến cố đó cũng có tầm mức hoàn cầu vì đem lại những hệ quả
tích cực lẫn tiêu cực liên quan đến toàn thể gia đình nhân loại. Những hệ quả
này không có tính cách máy móc hay tất định, nhưng đúng hơn là những cơ hội để
từ đó nhân loại cộng tác với ý định thương xót của Thiên Chúa, Đấng hành động
trong lịch sử.
Tại một số quốc gia, hệ quả đầu tiên là sự gặp gỡ giữa Giáo hội và
phong trào thợ thuyền phát sinh từ phản ứng trong lãnh vực luân lý và rõ rệt có
tính cách kitô giáo, chống lại tình trạng bất công lan tràn. Khoảng một thế kỷ
nay, phong trào này phần nào đã rơi vào quyền thống trị của thuyết Macxit, họ
xác tín rằng để đấu tranh chống áp bức một cách hữu hiệu, giai cấp vô sản phải
chấp nhận những lý thuyết duy vật và duy kinh tế của chủ thuyết ấy.
Trong cuộc khủng hoảng của thuyết Macxit, lại nói lên tiếng nói tự
nhiên của lương tâm thợ thuyền đòi hỏi công lý và nhìn nhận phẩm giá của lao
động phù hợp với học thuyết xã hội của Giáo hội.[57]Phong trào
thợ thuyền trở thành một phong trào rộng lớn hơn của những người lao động và
những người thiện chí, nhằm giải phóng con người và khẳng định quyền con người;
ngày nay phong trào ấy lan tràn tại nhiều quốc gia và thay vì chống lại Giáo
hội công giáo, lại quan tâm nhìn về Giáo hội.
Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa Macxit không loại trừ khỏi thế giới
những tình trạng bất công và áp bức mà chính chủ thuyết này đã khai thác và lợi
dụng. Hiện nay, với những người tìm kiếm một lý thuyết và một thực hành giải
phóng mới mẻ và đích thực, không những Giáo hội cung cấp cho họ giáo thuyết xã
hội, và một cách tổng quát giáo huấn của Giáo hội về con người được Đức Kitô
cứu chuộc, mà còn dấn thân và đóng góp cụ thể vào cuộc chiến đấu chống lại sự
kỳ thị và đau khổ.
Trong quá khứ gần đây, khát vọng chân thành muốn đứng về phía những
kẻ bị áp bức, và không muốn bị cắt rời khỏi dòng lịch sử, đã khiến nhiều tín
hữu dùng những cách thức khác nhau để tìm kiếm một thỏa hiệp ảo tưởng giữa chủ
nghĩa Macxit và kitô giáo. Giai đoạn hiện tại đã vượt thắng tất cả những gì là
lỗi thời trong những cố gắng này đồng thời khuyến khích tái khẳng định giá trị
tích cực của một nền thần học đích thực nhằm giải phóng toàn diện con người.[58] Xét
dưới góc độ này, các biến cố 1989 tỏ ra cũng quan trọng đối với các nước thế
giới thứ ba, là những nước đang tìm kiếm con đường phát triển riêng, cũng như
đối với các quốc gia Trung và Đông Âu.
27. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc.
Hệ quả thứ hai có liên quan đến chính các dân tộc Châu Âu. Người
ta đã vi phạm nhiều bất công ở cấp độ cá nhân, xã hội, khu vực quốc gia, trong
và cả trước những năm chủ nghĩa cộng sản thống trị; người ta đã tích lũy biết
bao sự thù nghịch và căm hờn. Sau khi chế độ độc tài sụp đổ, những điều ấy có
nguy cơ bùng nổ mạnh kèm theo bạo lực gây nên những xung đột trầm trọng và
những tang tóc, nếu thiếu nỗ lực đạo đức và lòng dũng cảm để làm chứng cho chân
lý một cách có ý thức, những đức tính đã nuôi dưỡng những cố gắng trong quá
khứ. Ước chi sự thù nghịch và bạo lực không còn thống trị trong các tâm hồn,
nhất là nơi những người đấu tranh cho công lý, và ước chi mọi dân tộc sẽ lớn
lên trong tinh thần hòa bình và tha thứ.
Nhưng phải biện pháp cụ thể để kiến tạo hoặc để củng cố những cơ
cấu quốc tế có khả năng can thiệp, bằng cách phân xử thích đáng những xung đột
giữa các quốc gia, sao cho mỗi quốc gia có thể giữ gìn quyền lợi riêng của mình
và tiến tới một hiệp định công bằng cũng như một sự dàn xếp hòa bình đối với
quyền lợi của các quốc gia khác. Điều này đặc biệt cần thiết cho các quốc gia
Châu Âu, vốn hiệp nhất một cách mật thiết trong mối dây liên hệ văn hóa chung
và một lịch sử đã có hàng nghìn năm. Cần phải có một cố gắng lớn lao để tái
thiết về luân lý và kinh tế cho những quốc gia đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.
Trong một thời gian dài, những tương quan kinh tế rất cơ bản đã bị bóp méo và
cả những đức tính nền tảng trong đời sống kinh tế, như lương thiện, tín nhiệm
thích đáng hăng say làm việc đều bị coi thường. Cần phải kiên trì tái thiết vật
chất và luân lý, đương lúc các dân tộc đã kiệt quệ vì bị bóc lột lâu dài đang
đòi hỏi nơi chính quyền những kết quả trông thấy và tức khắc cho họ được thoải
mái sung túc, cũng như thỏa mãn những khát vọng hợp pháp của họ.
Thất bại của chủ nghĩa xã hội tự nhiên tác động lớn lao trong
những gì liên quan đến việc phân chia hành tinh thành những thế giới đóng kín
đối nghịch nhau trong sự cạnh tranh hiềm khích. Điều đó càng làm nổi bật thực
tại phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc, cũng như sự kiện lao động của con người
tự bản chất là để hợp nhất, chứ không phải là để phân rẽ các dân tộc. Thực vậy,
hòa bình và thịnh vượng là những thiện hảo thuộc về toàn thể nhân loại, đến nỗi
không thể hưởng những cái đó một cách chính đáng và lâu dài nếu người ta dành
được, và duy trì bằng cách gây thiệt hại cho các dân tộc hay các quốc gia khác,
bằng cách xâm phạm đến quyền lợi của họ, hoặc bằng cách loại trừ họ khỏi những
nguồn phúc lợi.
28. Sự giúp đỡ đối với Đông Âu và thế giới thứ ba.
Đối với một số quốc gia Châu Âu, thì, theo một nghĩa nào đó, đúng
là bắt đầu một thời kỳ hậu chiến. Việc sắp đặt lại từ căn bản những hệ thống
kinh tế cho đến lúc đó vẫn còn tập thể hóa, tạo nên các khó khăn, và đòi hỏi
nhiều hy sinh, có thể sánh được với hy sinh mà các quốc gia Tây Âu đã phải đương
đầu để tái thiết đất nước sau thế chiến thứ II. Trong những khó khăn hiện nay,
điều công bằng là các quốc gia trước kia theo chủ nghĩa cộng sản phải được nâng
đỡ bởi nỗ lực liên đới của các quốc gia khác. Hiển nhiên, chính họ phải là
những tác nhân đầu tiên trong việc phát triển quốc gia, nhưng phải cho họ cơ
may hợp lý để hoàn thành mục tiêu đó, điều không thể xảy ra được nếu các quốc
gia khác không giúp đỡ họ. Đàng khác, hoàn cảnh hiện tại, nổi bật với các khó
khăn và thiếu thốn, là kết quả của một tiến trình lịch sử trong đó các quốc gia
trước kia theo chủ nghĩa cộng sản thường là nạn nhân, chứ không phải là những
người có trách nhiệm; bởi vậy họ lâm vào hoàn cảnh hiện tại không phải vì tự do
lựa chọn hay lầm lỗi, nhưng là vì những biến cố lịch sử bi thảm đã áp đặt trên
họ một cách thô bạo, và cản trở họ theo đuổi những con đường phát triển kinh tế
và xã hội.
Sự giúp đỡ của các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia Châu Âu
là những quốc gia có cùng một lịch sử và cùng gánh chịu trách nhiệm về lịch sử
đó, biểu thị một món nợ phải trả theo lẽ công bằng. Nhưng sự trợ giúp đó cũng
đáp ứng lợi ích và thịnh vượng chung của toàn thể Châu Âu, vì Châu Âu không thể
sống trong hòa bình, nếu những cuộc xung đột khác nhau bộc phát như kết quả của
quá khứ, lại trở nên gay gắt hơn do tình trạng mất ổn định về kinh tế, bất mãn
tâm linh và thất vọng.
Tuy nhiên một đòi hỏi như thế không được đưa đến một sự giảm bớt
những cố gắng nâng đỡ các quốc gia thuộc thế giới thứ ba, là những quốc gia
đang phải chịu đựng những hoàn cảnh thiếu thốn và nghèo khó nặng nề hơn[59]. Điều cần
thiết, đó là một nỗ lực phi thường để huy động các nguồn tài nguyên mà toàn thể
thế giới không thiếu, nhằm tăng tiến kinh tế và phát triển chung, bằng cách tái
xác định những ưu tiên và những bậc thang giá trị, dựa vào đó người ta sẽ quyết
định chọn lựa kinh tế và chính trị. Những nguồn tài nguyên bao la có thể đem ra
sử dụng nhờ việc giải trừ vũ khí của những bộ máy quân sự khổng lồ được xây
dựng cho cuộc đối đầu giữa Đông và Tây. Những nguồn tài nguyên đó có thể còn
dồi dào hơn nữa, nếu thay vì chiến tranh, người ta thiết lập những đường lối
đáng tin cậy, để giải quyết những xung đột, rồi phổ cập nguyên tắc kiểm soát và
giải trừ vũ khí, cả ở các nước thuộc thế giới thứ ba, bằng cách ấn định những
hạn chế cần thiết chống lại việc mua bán vũ khí[60]. Nhưng nhất
là phải từ bỏ não trạng coi người nghèo - cá nhân lẫn dân tộc - như một gánh
nặng, như những kẻ quấy rầy phiền phức, chỉ biết tiêu thụ những gì người khác
sản xuất được. Những người nghèo đòi hỏi quyền có phần trong những của cải vật
chất và quyền phát triển khả năng lao động của họ để kiến tạo một thế giới công
bằng hơn và thịnh vượng hơn cho mọi người. Sự tiến bộ của người nghèo là một cơ
may quan trọng cho sự phát triển luân lý, văn hóa và cả kinh tế của toàn thể
nhân loại.
29. Một sự phát triển con người toàn diện.
Cuối cùng không nên chỉ hiểu sự phát triển trong lãnh vực kinh tế,
nhưng còn trong ý nghĩa con người toàn diện[61]. Vấn đề
không phải là chỉ nâng cao các dân tộc lên trình độ mà các quốc gia giàu có
hiện đang hưởng, nhưng đúng hơn là xây dựng - bằng lao động liên đới - một đời
sống xứng đáng hơn, là thực sự làm tăng trưởng phẩm giá và tính sáng tạo của
mọi người, cũng như khả năng đáp trả ơn gọi của mỗi người và cũng là lời kêu
mời của Thiên Chúa. Tột đỉnh của sự phát triển là việc thực hiện quyền và bổn
phận tìm kiếm Thiên Chúa, nhận biết Người và sống theo sự hiểu biết này[62]. Trong các
chế độ độc tài và chuyên quyền, người ta đã đẩy nguyên tắc đề cao sức mạnh hơn
lý trí lên tới cực điểm. Con người miễn cưỡng chấp nhận một quan niệm về thực
tại do sức mạnh áp đặt, chứ không phải đạt được bằng nỗ lực của lý trí và quyền
sử dụng tự do của mình. Cần phải đảo ngược nguyên tắc này và nhìn nhận toàn
diện những quyền lợi của lương tâm nhân loại, lương tâm này chỉ lệ thuộc chân
lý tự nhiên và chân lý mạc khải. Nền tảng đầu tiên của toàn bộ trật tự chính
trị tự do đích thực nằm trong chính sự nhìn nhận những quyền lợi này[63]. Điều quan
trọng là tái khẳng định nguyên tắc này, vì những lý do sau đây:
1. Những thể thức độc tài và chuyên quyền cũ chưa bị triệt hạ hoàn
toàn và vẫn còn nguy cơ là những thể thức đó sẽ phục hồi được sức mạnh: tình
trạng này đòi hỏi một cố gắng mới trong việc cộng tác và liên đới giữa tất cả
các quốc gia.
2. Tại những quốc gia phát triển, đôi khi người ta truyền bá một
cách quá đáng những giá trị thuần túy thực dụng, bằng cách kích thích bản năng
và khuynh hướng hưởng thụ trực tiếp, điều này làm cho việc nhận thức và kính
trọng phẩm trật những giá trị thực sự của đời sống con người trở nên khó khăn.
3. Trong một số quốc gia xuất hiện những hình thức mới của chủ
trương bảo thủ tôn giáo, những hình thức này úp mở hoặc công khai từ chối chấp
nhận cho các công dân có một niềm tin khác với đa số quần chúng được thực thi
đầy đủ các quyền công dân hoặc tôn giáo của họ, ngăn cấm họ tham dự vào các
cuộc tranh luận văn hóa, hạn chế quyền của Giáo hội được rao giảng Tin mừng, và
quyền của con người được đón nhận lời đã được nghe và trở lại với Đức Kitô.
Không thể có sự tiến bộ đích thực nào nếu không tôn trọng quyền tự nhiên căn
bản là nhận thức chân lý và sống theo chân lý. Việc thực hiện và đào sâu quyền
đó bao hàm cả quyền khám phá và tự do đón nhận Đức Giêsu Kitô, Đấng là thiện
hảo thực sự của con người[64].
Chương IV
Vấn đề tư hữu và của cải dành cho mọi người
30. Quyền tư hữu và những giới hạn của nó
Trong thông điệp RN, Đức Lêô XIII đã xác quyết mạnh mẽ về tính
chất tự nhiên của quyền tư hữu, chống lại chủ nghĩa xã hội thời đó, và Người
dựa trên nhiều lý chứng khác nhau[65]. Quyền này
có tính cách nền tảng đối với sự tự lập và phát triển của cá nhân, vẫn luôn
được Giáo hội bảo vệ cho tới ngày nay. Giáo hội cũng dạy rằng sở hữu các tài
sản không phải là quyền tuyệt đối, nhưng trong chính bản chất quyền con người
của nó, nó cũng có những giới hạn riêng.
Khi công bố quyền tư hữu, Đức Giáo Hoàng cũng xác quyết rõ ràng
rằng việc “sử dụng của cải, dù là quyền tự do của con người, nhưng phải tùy
thuộc vào mục đích nguyên thủy của nó là được sáng tạo dành cho mọi người và đó
cũng là ý muốn của Đức Giêsu Kitô như được diễn tả trong Tin mừng. Quả vậy, Đức
Giáo Hoàng đã viết: “Các người giàu có thế gian này được khuyến cáo (...) rằng
họ phải run sợ trước những ngăm đe khác mà Đức Giêsu đã đưa ra để chống lại
những người giàu; rằng sau cùng sẽ tới một ngày họ sẽ phải trả lẽ gắt gao với
Thiên Chúa, là Đấng xét xử họ, về việc sử dụng tài sản của mình”; và trích dẫn
thánh Toma, Đức Giáo Hoàng còn thêm: “Nhưng nếu người ta hỏi việc sử dụng của
cải hệ tại điều gì, Giáo hội không ngần ngại trả lời: “Về điều này, con người
không được coi những của bên ngoài như của riêng, nhưng phải coi là của chung”,
bởi vì “bên trên những xét đoán và luật lệ của con người, còn luật lệ và sự xét
xử của Đức Giêsu Kitô”[66].
Các Đấng kế vị Đức Lêô XIII cũng đã nhắc lại hai xác quyết đó: -
Sự cần thiết và do đó tính hợp pháp của quyền tư hữu, và - quyền tư hữu cũng
phải có giới hạn của nó[67]. Công đồng
Vat.II cũng đã đưa ra học thuyết truyền thống này bằng những từ ngữ cần phải
trích lại nguyên văn như sau: “Khi sử dụng của cải, con người phải coi của cải
vật chất mà mình làm chủ một cách chính danh không chỉ như của riêng mình,
nhưng còn là của chung nữa: nghĩa là, của cải đó có thể sinh lợi không những
cho riêng mình mà còn cho cả người khác nữa”. Sau đó, Công đồng viết: “Quyền tư
hữu cũng như quyền làm chủ của cải bảo đảm cho mọi người một lãnh vực cần thiết
để cá nhân và gia đình được tự trị; phải coi các quyền đó như sự mở rộng phạm
vi quyền tự do của con người (...) Tự bản chất, quyền tư hữu có tính cách xã
hội. Tính cách này đặt nền tảng trên định luật của cải dành cho mọi người”[68]. Tôi cũng đã
nhắc lại học thuyết này, trước tiên trong diễn văn khai mạc Hội nghị lần thứ
III các Giám Mục Châu Mỹ La Tinh tại Puebla, rồi sau đó trong thông điệp LE, và
gần đây, trong thông điệp SRS[69].
31. Mục đích của của cải là phục vụ con người.
Khi đọc lại giáo huấn này về quyền tư hữu và về vấn đề mục đích
của cải là phục vụ mọi người trong bối cảnh thời đại chúng ta, người ta có thể
đặt ra vấn đề về nguồn gốc các của cải đang nâng đỡ đời sống con người, thỏa
mãn các nhu cầu con người và là đối tượng của các quyền của họ.
Nguồn gốc đầu tiên của mọi thiện hảo là hành động của chính Thiên
Chúa, Đấng đã sáng tạo trái đất và con người, Đấng đã ban trái đất cho con
người để con người làm chủ bằng lao động và hưởng thụ các hoa lợi của nó (x. St
1,28-29). Thiên Chúa đã ban trái đất cho cả nhân loại để trái đất nuôi sống mọi
phần tử của nhân loại, không loại trừ cũng không dành đặc quyền cho một cá nhân
nào. Đó là nguồn gốc của việc sở hữu chung của cải trái đất. Vì chính sự phong
nhiêu của trái đất và vì những khả năng của nó thỏa mãn các nhu cầu của con
người trái đất là quà tặng đầu tiên của Thiên Chúa để cho con người được tồn
tại. Thế mà, trái đất không nẩy sinh hoa trái nếu không có sự đáp ứng đặc biệt
của con người đối với ân huệ của Thiên Chúa, nghĩa là nếu không có lao động.
Nhờ lao động và nhờ sử dụng trí khôn cũng như tự do của mình con người thống
trị trái đất, biến trái đất thành nơi cư ngụ thích hợp cho mình. Như vậy, con
người chiếm hữu một phần đất, phần mà con người dành được do lao động của mình.
Đó là nguồn gốc của quyền tư hữu cá nhân. Hiển nhiên con người cũng có trách
nhiệm không được cản trở những người khác chiếm hữu được phần của họ từ hồng ân
của Thiên Chúa; trái lại, họ phải cộng tác với người khác để cùng nhau thống
trị toàn thể trái đất.
Trong lịch sử, hai yếu tố này, lao động và trái đất, luôn có ngay
ở khởi đầu của mọi xã hội nhân loại, tuy nhiên giữa hai yếu tố đó, không phải
luôn luôn có cùng một quan hệ. đã có thời sự phong nhiêu tự nhiên của trái đất
có vẻ là, và thực sự là yếu tố chính của sự giàu có, trong khi mà lao động, một
cách nào đó chỉ là sự trợ giúp và nâng đỡ cho sự phong nhiêu này mà thôi. Vào
thời đại chúng ta, vai trò của lao động con người trở thành một yếu tố mỗi ngày
một quan trọng hơn trong việc sản xuất ra của cải tinh thần và vật chất; ngoài
ra còn thấy rõ ràng lao động của một con người đan kết một cách hết sức tự
nhiên với lao động của những người khác. Hơn lúc nào hết, ngày nay, lao động là
lao động với người khác và lao động cho người khác: nghĩa là làm cái gì cho ai
đó. Việc lao động càng phong phú và sản xuất được nhiều khi con người càng có
khả năng nhận biết các nguồn tài nguyên sản xuất của trái đất và nhận ra đâu là
những nhu cầu sâu xa của người khác mà mình phục vụ.
32. Kỹ thuật và kiến thức
Tuy nhiên, ở thời đại chúng ta, có một hình thức tư hữu khác và
hình thức này có một tầm quan trọng không kém hình thức tư hữu đất đai: đó là
tư hữu về trí thức, kỹ thuật và kiến thức. Sự giàu có của các quốc gia kỹ nghệ
hóa dựa trên kiểu tư hữu này nhiều hơn là tư hữu những nguồn lợi tư nhiên.
Người ta đã gợi ra sự kiện con người làm việc với những người
khác, khi họ tham dự vào “lao động xã hội”, ngày càng mở rộng thêm những lãnh
vực lớn lao hơn. Theo nguyên tắc chung một người sản xuất ra một đồ vật tức là
làm ra vật đó không chỉ để sử dụng cho cá nhân mình, nhưng cũng còn để các
người khác có thể sử dụng, sau khi đã trả một giá tương xứng, được thỏa thuận
trong thương lượng tự do. Thế mà khả năng nhận ra đúng lúc những nhu cầu của
người khác và toàn bộ các yếu tố sản xuất thích ứng nhất để thỏa mãn các nhu
cầu ấy chính là một nguồn mạch quan trọng khác của sự giàu có trong xã hội ngày
nay. Hơn nữa, có nhiều của cải không thể sản xuất được bằng cách thức thích hợp
bằng công việc của một cá nhân, nhưng đòi hỏi sự cộng tác của nhiều người vào
cùng một mục tiêu. Tổ chức một nỗ lực sản xuất như vậy, lên chương trình về
thời gian, lưu tâm để áp dụng đúng các nhu cầu phải thỏa mãn, chấp nhận những
mạo hiểm cần thiết, tất cả những điều đó cũng làm nên một nguồn mạch sự giàu có
trong xã hội hiện nay. Như vậy, lao động có tổ chức và sáng tạo, cũng như khả
năng sáng kiến và quản trị là những yếu tố có một vai trò luôn hiển nhiên và
quyết định hơn[70].
Cần phải chú ý nhiều để nhận xét về tiến trình đã đưa ra ánh sáng
một cách cụ thể, giáo huấn về con người mà kitô giáo vẫn không ngừng xác quyết.
Thực vậy, cùng với trái đất tài nguyên chính yếu của con người là chính con
người. Đó là trí thông minh của con người, nó làm cho con người khám phá được
những khả năng sản xuất của trái đất cũng như nhiều cách thức nhờ đó nhu cầu
của con người có thể được thỏa mãn. Chính nhờ lao động có điều khiển, trong sự
cộng tác liên đới đã giúp tạo nên những cộng đồng lao động mở rộng và đảm bảo
hơn để hoàn thành việc biến đổi môi trường tự nhiên và chính môi trường nhân
bản. Trong tiến trình này, có những đức tính quan trọng như sự chuyên chăm,
nhiệt tâm làm việc, sự khôn ngoan trước các nguy cơ hợp lý phải chấp nhận, sự tín
nhiệm xứng đáng và sự trung thành trong các quan hệ hỗ tương, sự cương quyết
trong việc thi hành các quyết định khó khăn và đau lòng, nhưng là những quyết
định cần thiết cho công việc chung của xí nghiệp và cần thiết để đối đầu với
các tình thế hỗn loạn có thể xảy ra.
Việc quản trị hiện nay trong việc kinh doanh bao gồm các khía cạnh
tích cực mà nguồn mạch của nó là sự tự do cá nhân được thể hiện trong lãnh vực
kinh tế cũng như trong nhiều lãnh vực khác. Thực vậy, kinh tế là một lãnh vực
trong nhiều hình thức hoạt động của con người và trong lãnh vực này cũng như
trong các lãnh vực khác, luôn có quyền được tự do cũng như nghĩa vụ sử dụng tự
do một cách có trách nhiệm. Tuy nhiên, cần phải ghi nhận rằng, có nhiều tính
chất khác nhau giữa các khuynh hướng của xã hội hiện tại và của xã hội quá khứ,
ngay cả trong thời gian vừa qua. Nếu, ngày trước, yếu tố quyết định việc sản
xuất là đất đai, và nếu, sau đó, là yếu tố tư bản, hiểu như là toàn bộ máy móc
và các dụng cụ sản xuất, thì ngày nay yếu tố càng lúc càng có tính quyết định
lại là chính con người, nghĩa là khả năng hiểu biết của con người thể hiện
trong kiến thức khoa học, khả năng tổ chức liên kết và khả năng nắm bắt cũng
như thỏa mãn các nhu cầu của người khác.
33. Thế giới thứ ba bị gạt ra bên lề
Tuy nhiên cũng phải vạch rõ các nguy cơ và các vấn đề gắn liền với
những mẫu phát triển này. Thực vậy, nhiều người và chắc chắn đó là đa số, ngày
nay không có phương tiện để gia nhập một cách hữu hiệu và xứng đáng với con
người, vào trong hệ thống doanh nghiệp, trong đó lao động thực sự chiếm một vị
trí trọng tâm. Họ không có khả năng đạt được kiến thức căn bản giúp họ thể hiện
khả năng sáng tạo và phát triển khả năng của mình, cũng không thể gia nhập vào
hệ thống các kiến thức cũng như các mạng lưới thông tin giúp họ được thấy tư
cách của mình như được đánh giá và sử dụng. Tóm lại, nếu không bị bóc lột thì
họ cũng bị gạt ra bên lề; và sự phát triển kinh tế có thể nói cứ tiếp tục diễn
ra ở trên đầu họ, nếu không đi đến chỗ thu hẹp hơn nữa lãnh vực kinh tế sinh
tồn của họ trước đây vốn đã hạn hẹp rồi. Những người này không có khả năng đối
phó với sự cạnh tranh của các sản phẩm do những phương pháp tồi tàn sản xuất và
đáp ứng những nhu cầu mà trước đây họ đã từng đáp ứng trong khuôn khổ những tổ
chức truyền thống. Bị quyến rũ do sự giàu có hào nhoáng mà mình không đạt tới
được đồng thời bị thúc bác do nhu cầu, những người này đang tràn ngập các thành
phố của thế giới thứ ba; tại đây họ thường bị mất gốc về phương diện văn hóa,
và sống trong tình trạng tạm bợ cưỡng bách, không có khả năng hội nhập vào xã
hội. Trong thực tế người ta không nhìn nhận phẩm giá, cũng như những khả năng
tích cực của họ, và đôi khi người ta tìm cách loại bỏ sự hiện diện của họ trong
dòng lịch sử, bằng cách áp đặt một số hình thức kiểm soát dân số, ngược với
phẩm giá con người.
Nhiều người khác, dù không hoàn toàn bị loại ra bên lề, nhưng phải
sống trong những hoàn cảnh mà cuộc chiến đấu sống còn là nhu cầu trên hết,
trong khi các đường lối của một chủ nghĩa tư bản thời đầu vẫn còn hoành hành
trong một tình trạng mà tính cách “dã man” của nó chẳng hơn gì những thời kỳ
đen tối nhất của giai đoạn kỹ nghệ hóa đầu tiên. Trong những trường hợp khác,
đất đai vẫn còn là yếu tố trọng tâm của tiến trình kinh tế và những người canh
tác đất đai bị cấm chiếm hữu đất đai, họ bị đẩy tới một cuộc sống hầu như nô
dịch[71]. Trong những
trường hợp như vậy, vào thời đại này cũng như thời của thông điệp RN, quả thực
là một sự bóc lột bất nhân. Dù có những thay đổi nghiêm trọng trong những xã
hội tiến bộ nhất, các khiếm khuyết của con người trong chủ nghĩa tư bản còn lâu
mới biến mất, và hậu quả của nó là vật chất lấn lướt trên con người; hơn nữa,
đối với các người nghèo, thêm vào sự khan hiếm của cải vật chất, còn có sự
thiếu thốn về hiểu biết và kiến thức, điều này ngăn cản họ thoát ra khỏi tình
trạng lệ thuộc nhục nhã.
Đáng tiếc thay phần lớn dân cư ở thế giới thứ ba vẫn còn sống
trong những điều kiện như vậy. Tuy nhiên sẽ không còn chính xác nếu hiểu thế
giới thứ ba chỉ theo nghĩa địa dư. Trong một số miền và một số thành phần xã
hội của “thế giới” này, các tiến trình phát triển đang thể hiện, tập trung
không phải trên sự khai thác các tài nguyên vật chất cho bằng trên sự khai thác
“tài nguyên con người”.
Cách đây không lâu lắm người ta chủ trương rằng đối với các quốc
gia nghèo nhất, sự phát triển giả thiết rằng các quốc gia đó phải tách khỏi thị
trường thế giới và chỉ dựa vào năng lực riêng của mình. Kinh nghiệm của những
năm gần đây minh chứng rằng các quốc gia tự tách mình ra khỏi những cuộc trao
đổi chung trong hoạt động kinh tế ở tầm mức quốc tế đều bị đình trệ và thụt
lùi, và các quốc gia hội nhập được vào trong các cuộc trao đổi đó thì tạo được
một sự phát triển. Như vậy, hình như vấn đề thiết yếu là gia nhập vào thị
trường quốc tế cách bình đẳng, không dựa trên nguyên lý chỉ khai khẩn các nguồn
lợi thiên nhiên nhưng trên sự phát triển các tài nguyên con người[72].
Tuy nhiên, một số khía cạnh tiêu biểu của thế giới thứ ba cũng
xuất hiện trong các nước đã phát triển, tại các nước này, sự biến đổi không
ngừng về cách thế sản xuất và các kiểu tiêu thụ đã làm mất giá trị các kiến
thức đã đạt được cũng như các chuyên môn nghề nghiệp vững chắc, điều đó đòi hỏi
phải có một nỗ lực liên tục để thích ứng và tái huấn nghệ. Những ai không thể
theo được nhịp tiến sẽ dễ dàng bị loại ra ngoài lề như những người lớn tuổi,
những người trẻ không có khả năng hội nhập vào đời sống xã hội, cũng như một
cách chung, những người yếu kém nhất và đám người được gọi là thế giới thứ tư
cũng bị loại ra như vậy. Trong những hoàn cảnh như thế, tình trạng của người
phụ nữ vẫn còn rất khó khăn.
34. Nền kinh tế thị trường.
Trong mọi quốc gia cũng như trong các mối quan hệ quốc tế, hình
như thị trường tự do là phương tiện thích dụng nhất để phân chia các nguồn lợi
và đáp ứng hữu hiệu các nhu cầu cuộc sống. Nhưng điều đó chỉ đúng với các nhu
cầu “có thể thanh toán bằng tiền”, vì người ta có khả năng mua sắm, cũng như
việc các nguồn lợi “có thể bán được”, có thể đổi lấy nhờ trả một giá chính đáng
nào đó. Tuy nhiên có nhiều nhu cầu của con người không thể thỏa mãn được trong
thị trường. Đây là một nghĩa vụ nghiêm chỉnh về công bằng và chân lý là làm sao
cho các nhu cầu căn bản của con người được thỏa mãn và giúp cho những người
phải thiếu thốn không bị diệt vong. Ngoài ra, những người trong cảnh túng quẫn
này phải được giúp đỡ để có được những kiến thức, để gia nhập vào hệ thống các
mối liên hệ và để họ phát triển năng lực của mình hầu có thể phát triển những
khả năng và nguồn vốn cá nhân của mình. Bên trên sự hợp lý của những trao đổi
bình đẳng và những hình thức công bằng chi phối các sự trao đổi đó, còn có một
món nợ với con người, bởi vì họ là con người, do phẩm giá cao quý của họ. Món
nợ này bao gồm một cách không thể tách lìa cái khả năng sống còn và khả năng
đem lại một sự đóng góp tích cực cho sự thiện chung của nhân loại.
Các mục tiêu đề ra trong thông điệp RN để tránh hạ thấp lao động
của con người và chính con người thành một thứ hàng hóa thuần túy vẫn luôn có
giá trị nguyên vẹn trong bối cảnh thế giới thứ ba, và, trong một số trường hợp,
nó vẫn là mục tiêu phải đạt tới, đó là: tiền lương đủ để nuôi sống gia đình,
những bảo đảm xã hội cho tuổi già và khi thất nghiệp, sự điều chỉnh các điều
kiện lao động cho thích hợp.
35. Vai trò và những giới hạn của lợi nhuận
Tất cả những điều đó, làm nên một lãnh vực hoạt động rộng lớn, và
phong phú đối với sự dấn thân và đấu tranh, nhân danh sự công bằng, của các
nghiệp đoàn và các tổ chức khác của người lao động; các nghiệp đoàn và tổ chức
đó bảo vệ quyền của người lao động và bảo vệ phẩm giá của họ, đồng thời cũng
chu toàn một chức năng thiết yếu thuộc lãnh vực văn hóa, để làm cho người lao
động được tham gia với đầy đủ quyền hạn và một cách đáng tôn trọng vào đời sống
của quốc gia, cũng như giúp đỡ họ tiến bước trên con đường phát triển của họ.
Theo chiều hướng này, người ta có lý để nói về một cuộc đấu tranh
chống lại một trật tự kinh tế hiểu như là phương pháp để đảm bảo ưu thế tuyệt
đối của tư bản, của việc chiếm hữu các dụng cụ sản xuất và chiếm hữu đất đai,
hơn là tự do và phẩm giá lao động của con người[73]. Khi chiến
đấu chống lại hệ thống này, người ta không thể đề ra đối nghịch nó, như một
kiểu mẫu thay thế, hệ thống chủ nghĩa xã hội, vì hệ thống này thực ra cũng là
một thứ chủ nghĩa tư bản của nhà nước, nhưng người ta có thể đề ra đối nghịch
nó xã hội của tự do lao động, kinh doanh và được tham dự. Xã hội này không đối
nghịch với thị trường, nhưng đòi hỏi thị trường phải được kiểm soát một cách
hợp lý do những sức mạnh xã hội, do nhà nước, sao cho bảo đảm được sự thỏa mãn
các nhu cầu căn bản của toàn xã hội.
Giáo hội nhìn nhận vai trò thích hợp của lợi nhuận như là một chỉ
dẫn cho thấy tiến hành tốt đẹp của một doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp làm
ra lợi nhuận, thì điều đó có nghĩa là các yếu tố sản xuất đã được sử dụng thích
đáng và các nhu cầu chính đáng của con người đã được thỏa mãn thích hợp. Tuy
nhiên, lợi nhuận không phải là chỉ dẫn duy nhất về tình trạng của một doanh
nghiệp. Có thể rằng người ta đạt được những tài khoản có giá, nhưng đồng thời
những con người đã làm nên những tài sản quý báu nhất của doanh nghiệp lại bị
hạ thấp và bị xúc phạm về phẩm giá của họ. Điều đó chẳng những là điều không
thể chấp nhận được, xét theo khía cạnh luân lý, nhưng tất nhiên còn kéo theo
những hậu quả tiêu cực đối với chính hiệu năng kinh tế của doanh nghiệp. Quả thực,
mục tiêu của doanh nghiệp không phải duy chỉ là tạo ra lợi nhuận, nhưng còn là
chính sự hiện hữu của doanh nghiệp như một cộng đồng các con người nữa; cộng
đồng này bằng những cách thức khác nhau, tìm đạt tới sự thỏa mãn các nhu cầu
nền tảng của mình và làm thành một nhóm riêng biệt để phục vụ toàn thể xã hội.
Lợi nhuận là một yếu tố điều hòa của một cơ sở, nhưng đó không phải là một yếu
tố duy nhất; còn phải quan tâm thêm vào đó những yếu tố khác có tính nhân bản
và đạo đức, những yếu tố này về lâu về dài, ít ra cũng là những yếu tố thiết
yếu cho doanh nghiệp.
Chúng ta thấy rằng người ta không thể chấp nhận sự sụp đổ của “chủ
thuyết xã hội hiện thực”, nhưng người ta vẫn gọi nhường chỗ cho duy một mẫu chủ
nghĩa tư bản trong việc tổ chức kinh tế. Phải phá đổ những rào cản và những thế
lực độc quyền làm cho nhiều dân tộc bị loại ra bên lề sự phát triển, phải đảm
bảo cho mọi cá nhân và mọi quốc gia có những điều kiện sơ đẳng để tham gia vào
sự phát triển. Mục tiêu này đòi hỏi tất cả cộng đồng thế giới phải có nhiều nỗ
lực phối hợp và có trách nhiệm. Các quốc gia hùng mạnh nhất nên biết dành cho
các quốc gia nghèo nhất có những khả năng hội nhập vào đời sống quốc tế và các
quốc gia thiếu thốn nhất nên biết nắm bắt lấy những khả năng này, chấp nhận
những nỗ lực và những hy sinh cần thiết, bảo đảm sự vững chắc của tổ chức chính
trị và nền kinh tế của mình, bảo đảm sự vững vàng trong viễn tượng tương lai
của mình, bảo đảm sự gia tăng trình độ chuyên nghiệp của các người lao động,
bảo đảm các người kiều khiển doanh nghiệp có được sự đào tạo hữu hiệu và có ý
thức về trách vụ của mình.[74]
Hiện nay, vấn đề nợ nần của các quốc gia nghèo nhất, một vấn đề mà
phần lớn vẫn chưa được giải quyết đang đè nặng trên những nỗ lực xây dựng đã
thể hiện trong lãnh vực phát triển. Nguyên tắc nợ thì phải trả, dĩ nhiên là
nguyên tắc chính đáng, nhưng nếu đòi hỏi, yêu cầu phải trả khi mà điều đó đưa
tới việc thực sự áp đặt những lựa chọn chính trị, mà thực chất là thúc đẩy cả
một dân tộc đến chỗ nghèo đói và thất vọng thì đó là không chính đáng. Người ta
không thể đòi hỏi trả những món nợ đã ký kết với cái giá những hy sinh không
thể chịu đựng nổi. Trong trường hợp này, cần phải tìm những phương cách giảm
bớt, gia hạn hoặc xóa bỏ tiền nợ, hợp với quyền căn bản được sống và được phát
triển của các dân tộc, điều này đang được thực hiện một phần.
36. Những thái quá của xã hội tiêu thụ
Giờ đây, cần phải lưu ý tới các vấn đề đặc biệt và những đe dọa
xảy ra trong nội bộ các nền kinh tế tiến bộ nhất và gắn liền với các đặc tính
của các nền kinh tế ấy. Trong những giai đoạn trước khi phát triển, con người
luôn sống trong sự nghèo khổ. Những nhu cầu của họ rất ít, một cách nào đó,
giới hạn trong những cấu trúc khách quan của sự cấu tạo thể lý của họ mà thôi,
và hoạt động kinh tế được quan niệm là để thỏa mãn những nhu cầu đó. Ngày nay,
rõ ràng vấn đề không phải chỉ là cung cấp cho con người một lượng đủ về của
cải, nhưng là đáp ứng cho nhu cầu về phẩm: phẩm chất của hàng hóa được sản xuất
và tiêu thụ, phẩm chất của dịch vụ mà người ta cần đến, phẩm chất của môi
trường và của đời sống nói chung.
Yêu cầu có một cuộc sống thỏa mãn hơn về phẩm chất và giàu có hơn,
tự nó, là điều chính đáng. Nhưng người ta phải lưu ý tới các trách nhiệm mới và
tới các nguy hiểm gắn liền với giai đoạn lịch sử này. Trong cách thức nảy sinh
các nhu cầu mới và cách thức xác định các nhu cầu đó, luôn luôn có một quan
niệm hơn kém chính đáng về con người, và về sự thiện đích thực của con người.
Trong những chọn lựa sản xuất và tiêu thụ, xuất hiện một nền văn hóa nào đó, nó
nói lên một quan niệm về toàn bộ đời sống. Chính khi đó xuất hiện hiện tượng
tiêu thụ. Khi người ta xác định các nhu cầu mới, các phương pháp mới để làm
thỏa mãn các nhu cầu đó, người ta cần phải cảm nhận một hình ảnh toàn diện về
con người, hình ảnh tôn trọng tất cả những chiều kích của con người, và coi
chiều kích thể lý, bản năng là những điều tùy thuộc vào những chiều kích nội
tại và thiêng liêng. Ngược lại, nếu người ta qui chiếu trực tiếp vào các bản
năng, và nếu người ta bỏ qua, cách này hay cách khác, thực tại của một con
người có ý thức và tự do, thì điều đó có thể đưa tới những thói quen tiêu thụ
và những kiểu sống khách quan không chính đáng và thường là tai hại cho sức
khỏe thể lý và tinh thần. Một hệ thống kinh tế không bao gồm trong khuôn khổ
riêng của nó những tiêu chuẩn cho phép phân biệt đúng đắn các hình thức mới và
cao nhất để thỏa mãn các nhu cầu của con người cũng như các nhu cầu mới được
khơi dậy ngăn cản con người đạt tới sự trưởng thành nhân cách. Như vậy cần
thiết và khẩn cấp phải có một công việc rộng lớn về giáo dục và văn hóa, gồm
việc huấn luyện các người tiêu thụ biết sử dụng quyền chọn lựa một cách có
trách nhiệm, huấn luyện một cảm quan bén nhạy về tinh thần trách nhiệm cho
những người sản xuất và nhất là cho những chuyên viên về truyền thông xã hội,
chưa kể tới sự can thiệp cần thiết của chính quyền.
Ma túy là một trường hợp rõ ràng về một sự tiêu thụ giả tạo, có
hại cho sức khỏe và phẩm giá con người và chắc chắn là khó kiểm soát được. Sự
lan rộng của ma túy là một dấu hiệu thiếu hiệu năng của hệ thống xã hội, nó giả
thiết một “não trạng” duy vật, và theo một nghĩa nào đó, hủy hoại các nhu cầu
của con người. Như vậy, các khả năng đổi mới nền kinh tế tự do, cuối cùng, lại
được thực hiện một cách độc đoán và không thích hợp. Ma túy, và cả các sách báo
khiêu dâm và các hình thức tiêu thụ khác, nhằm khai thác sự dòn mỏng của những
người yếu đuối, là một cách tìm lấp đầy khoảng trống tâm linh đang diễn ra.
Ước muốn sống tốt hơn không phải là xấu, nhưng điều xấu là một mẫu
sống tốt hơn lại hướng tới “cái có” chứ không hướng tới “cái là”, và khi người
ta muốn có nhiều hơn không phải để là nhiều hơn, nhưng là để hoàn thành cuộc
sống bằng một sự hưởng thụ, coi đó như chính mục đích của cuộc đời[75]. Như vậy,
cần phải nỗ lực để tạo ra một mẫu sống trong đó các yếu tố quyết định các lựa
chọn tiêu thụ, tiết kiệm và đầu tư, phải là sự tìm kiếm điều chân thiện mỹ,
cũng như sự thông hiệp với các người khác để tạo một sự phát triển chung. Về
vấn đề này, tôi không chỉ bằng lòng với một lời kêu gọi thi hành nghĩa vụ của
đức ái, nghĩa là nghĩa vụ trao tặng những cái “dư thừa”, và đôi khi cả những
cái “cần thiết” của mình để trợ giúp cuộc sống của người nghèo. Tôi muốn nói
tới sự kiện là ngay cả sự lựa chọn đầu tư ở nơi này hơn là nơi kia, trong một
ngành sản xuất này hơn là ngành sản xuất khác, luôn là một lựa chọn có tính
cách luân lý và văn hóa. Một khi có đủ một số điều kiện cần thiết trong lãnh
vực kinh tế và để tạo nên một thế chính trị chắc chắn, thì quyết định đầu tư,
nghĩa là trao tặng cho một dân tộc có một cơ hội để thể hiện công việc của mình
cho có giá trị, cũng chịu ảnh hưởng do một thái độ thiện cảm và niềm tin tưởng
nơi Đấng Quan Phòng, những thái độ này cho thấy phẩm chất nhân bản của người
quyết định.
37. Sự cần thiết của sinh thái học
Bên cạnh vấn đề tiêu thụ, vấn đề sinh thái gắn liền với vấn đề
tiêu thụ, cũng tạo nên biết bao lo ngại. Con người do bị chi phối bởi các ước
muốn “có” và hưởng, nhiều hơn bởi ước muốn “là” và tăng triển, đã tiêu thụ một
cách quá đáng và bừa bãi các tài nguyên của trái đất và của chính cuộc sống
mình. Nguồn gốc của sự hủy hoại cách ngu ngốc môi trường thiên nhiên là một sự
sai lầm về nhân học, tiếc thay, sai lầm này lan rộng trong thời đại chúng ta.
Con người, khi khám phá ra khả năng biến đổi, và theo một nghĩa nào đó, khả
năng sáng tạo thế giới nhờ lao động của mình, đã quên rằng điều đó luôn chỉ
được hoàn thành khởi từ một hồng ân nguyên thủy do Thiên Chúa ban ra. Con người
tưởng mình có quyền sử dụng trái đất một cách độc đoán, bắt nó hoàn toàn lệ
thuộc ý muốn của mình, như thể trái đất không hề có một hình thức và một mục
đích từ trước do Thiên Chúa định đoạt và con người có thể phát triển mà không
được phản bội. Thay vì chu toàn vai trò là người cộng tác với Thiên Chúa trong
công trình sáng tạo, con người tự thay thế Thiên Chúa, và như vậy đưa tới sự
phản loạn của thiên nhiên, một thiên nhiên bị hà hiếp hơn là được cai quản do
con người[76].
Ở đây, chúng ta nhận thấy trước hết là sự nghèo nàn và bần tiện
trong cái nhìn của con người, bị thúc đẩy do ước muốn chiếm hữu sự vật hơn là
nhìn sự vật trong tương quan với chân lý. Một cái nhìn không có được một thái
độ vô tư, vô vị lợi do cảm quan thẩm mỹ được gợi ra bởi sự thán phục trước sự
vật, và trước vẻ huy hoàng, giúp con người nhận thấy trong các sự vật hữu hình
sứ điệp của Thiên Chúa vô hình đã sáng tạo ra chúng. Trong lãnh vực này, nhân
loại ngày nay phải ý thức về các nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với các
thế hệ tương lai.
38. Sự tàn phá môi trường
Ngoài sự tàn phá một cách vô lý môi trường thiên nhiên còn phải
nhắc tới ở đây sự tàn phá còn nặng nề hơn nữa đối với môi trường nhân loại, thế
mà người ta còn chưa có một sự chú ý đúng mức về môi trường con người này.
Trong khi người ta bận tâm chính đáng, mặc dù còn chưa đạt tới mức độ cần
thiết, nhằm bảo vệ chỗ cư trú thiên nhiên của các chủng loại thú vật khác nhau
đang bị đe dọa tuyệt chủng, bởi vì người ta nhận thức rằng mỗi loại có phần
đóng góp riêng của mình cho sự quân bình chung của trái đất, thì người ta lại
quan tâm quá ít trong việc bảo vệ các điều kiện luân lý của một thứ “sinh thái
con người” đích thực. Không phải chỉ có trái đất được Thiên Chúa ban cho con
người và con người phải sử dụng nó trong sự tôn trọng ý hướng nguyên thủy, tốt
đẹp của Đấng Tạo Hóa, nhưng cả con người cũng được Thiên Chúa ban cho chính
mình và như vậy con người phải tôn trọng cấu trúc tự nhiên và luân lý mà mình
đã lãnh nhận. Trong bối cảnh này, cần phải đề cập tới các vấn đề trầm trọng do
việc đô thị hóa hiện đại gây ra, tới sự cần thiết một kế hoạch đô thị hóa quan
tâm tới đời sống cá nhân, và lưu ý thích đáng đến “sinh thái xã hội” của lao
động.
Con người đón nhận từ Thiên Chúa phẩm giá thiết yếu của mình, và
cùng với phẩm giá đó, cũng đón nhận khả năng vượt trên tất cả tổ chức xã hội để
hướng tới chân lý và sự thiện. Tuy nhiên, con người cũng bị chi phối do cơ cấu
xã hội mình đang sống, do nền giáo dục mình được hấp thụ và do môi trường của
mình. Các yếu tố này có thể làm dễ dàng hoặc ngăn cản đời sống dõi theo chân
lý. Các quyết định, nhờ đó môi trường nhân loại được cấu tạo có thể tạo nên
những cấu trúc tội lỗi riêng biệt làm cản trở sự phát triển trọn vẹn của những
người bị các cấu trúc đó chèn ép bằng nhiều cách. Việc phá hủy các cấu trúc đó
và thay thế chúng bằng những hình thức đích thực hơn của sự chung sống, đó là một
trách vụ đòi hỏi có sự can đảm và kiên nhẫn[77].
39. Gia đình: đền thánh của sự sống
Cấu trúc căn bản đầu tiên của một nền “sinh thái con người” đó là
gia đình; trong cuộc sống gia đình, con người đón nhận những ý niệm đầu tiên có
tính cách quyết định, liên quan tới chân lý và sự thiện, trong gia đình con
người học biết thế nào là yêu mến và được yêu, và do đó cũng học biết ý nghĩa
cụ thể của việc là một con người. Ở đây chúng ta nghĩ đến gia đình dựa trên hôn
nhân, trong đó việc dâng hiến chính mình cho nhau giữa người nam và người nữ
tạo nên một môi trường sống mà đứa trẻ có thể được sinh ra và triển nở các khả
năng của nó, học biết về phẩm giá của nó và chuẩn bị đối đầu với vận mệnh duy
nhất bất khả thay thế của nó. Ngược lại, thường xảy ra là con người thiếu can
đảm để thực hiện những điều kiện đích thực cho việc sinh ra một con người và họ
đi đến chỗ tự coi mình và tự coi cuộc sống của mình như là toàn bộ các cảm giác
nghiệm thấy chứ không như một công trình cần phải hoàn thành. Từ đó nảy sinh sự
thiếu tự do, làm cho con người từ bỏ nghĩa vụ phải tự gắn bó với người khác
trong một tình trạng vững bền và từ bỏ nghĩa vụ sinh con cái, hoặc coi các đứa
con như một trong nhiều “sự vật” mà con người có thể có hoặc không tùy theo sở
thích, và coi con cái như một thứ cạnh tranh với các khả năng khác.
Phải trở lại với quan niệm gia đình như một đền thánh của sự sống.
Thực sự, gia đình được thánh hiến, đó là nơi mà sự sống, một hồng ân của Thiên
Chúa, có thể được đón nhận một cách thích hợp và được bảo vệ chống lại bao
nhiêu sự tấn công xảy ra, đó là nôi mà sự sống có thể triền nở theo những đòi
hỏi của một sự tăng triển con người đích thực. Ngược lại với điều người ta gọi
là văn hóa của sự chết, gia đình là nơi văn hóa của sự sống.
Trong lãnh vực này, hình như tài năng của con người được sử dụng
nhiều để giới hạn, loại trừ hoặc tiêu hủy các nguồn mạch của sự sống, ngay cả
bằng cách phá thai, điều này khốn thay lại đang lan tràn trong thế giới, hơn là
để bảo vệ và mở rộng các khả năng của chính sự sống. Trong thông điệp SRS,
chúng tôi đã tố cáo các phong trào tổ chức chống lại sự sinh sản, các phong
trào này dựa trên một quan niệm sai lạc về vấn đề dân số, trong bầu khí “hoàn
toàn mất tôn trọng tự do quyết định của các người liên hệ”, thường bắt con
người chịu những áp lực không thể chịu nổi (...) để khuất phục họ dưới hình
thức áp bức mới này[78]. Đó là những
chính sách với những kỹ thuật mới, đã mở rộng lãnh vực hoạt động của mình đến
mức đầu độc sự sống của hàng triệu con người không tự vệ, giống như trong một
“cuộc chiến tranh hóa học”.
Những phê phán này không hẳn nhằm tới một hệ thống kinh tế cho
bằng hệ thống đạo đức và văn hóa. Thực sự kinh tế chỉ là một khía cạnh, một
chiều kích trong tổng thể phức tạp của hoạt động con người. Nếu như kinh tế trở
thành một điều tuyệt đối, nếu sự sản xuất và tiêu thụ các hàng hóa, cuối cùng
lại chiếm vị trí trung tâm của đời sống xã hội và trở thành giá trị duy nhất
của xã hội, không tùy thuộc bất cứ giá trị nào, thì phải tìm nguyên nhân của nó
không chỉ và không nhiều lắm trong chính hệ thống kinh tế, nhưng trong sự kiện
là hệ thống văn hóa xã hội, khi không nhận biết chiều kích đạo đức và tôn giáo,
đã trở nên yếu đuối và tự giản lược vào sự sản xuất các của cải cũng như các
dịch vụ[79].
Chúng ta có thể tóm tắt tất cả những điều đó bằng cách khẳng định
một lần nữa rằng tự do kinh tế chỉ là một yếu tố của tự do con người. Khi nó
trở thành độc lập, khi con người bị coi như một nhà sản xuất hoặc một người
tiêu thụ của cải hơn là một chủ thể đã sản xuất và tiêu thụ để sống, khi đó tự
do kinh tế mất đi mối tương quan chính đáng với ngôi vị con người và cuối cùng
là tha hóa và đàn áp con người[80].
40. Nhà nước phải bảo vệ những tài sản tập thể.
Nhà nước có bổn phận bảo vệ các tài sản tập thể, đó là môi trường
thiên nhiên và môi trường con người, và sự gìn giữ đó không thể chỉ thực hiện
được do vận hành của thị trường. Cũng như vào thời chế độ tư bản trước đây, nhà
nước có nghĩa vụ bảo vệ các quyền căn bản của lao động, thì cũng thế, trong chế
độ tư bản mới, nhà nước cũng như xã hội phải bảo vệ tài sản tập thể, những tài
sản này và những cái khác nữa, làm nên một khuôn khổ trong đó mỗi con người có
thể đạt tới mục đích cá nhân của mình một cách hợp pháp.
Ở đây chúng ta thấy một giới hạn khác của thị trường: có những nhu
cầu tập thể và có tính cách phẩm chất không thể được thỏa mãn do cơ chế của thị
trường; có những nhu cầu quan trọng của con người vượt ra khỏi đường lối của
thị trường; có những của cải mà, do bản chất của nó, không thể bán hoặc mua
được. Chắc chắn các cơ chế thị trường đem lại nhiều lợi điểm vững bền; trong đó
phải kể đến việc chúng giúp sử dụng tốt hơn các nguồn lợi, chúng cổ võ những sự
trao đổi sản phẩm và nhất là chúng đặt trọng tâm nơi ý muốn và sự ưa thích của
con người trong hợp đồng, đáp ứng được sự ưa thích của một người khác. Tuy
nhiên chúng bao gồm nguy cơ của một thứ “bái vật” trong thị trường, tức não
trạng không biết rằng có những của cải, tự bản chất không phải là và không thể
đơn giản là hàng hóa.
41. Những nguồn gốc của sự vong thân.
Chủ thuyết Macxit đã phê phán các xã hội tư bản tiểu tư sản, trách
cứ các xã hội đó làm tha hóa con người và biến cuộc sống đó thành một thứ hàng
hóa. Sự trách cứ này rõ ràng dựa trên một quan niệm sai lầm và không thích đáng
về sự vong thân, quan niệm này coi sự vong thân chỉ tùy thuộc vào toàn bộ những
tương quan sản xuất và chiếm hữu, nghĩa là trách cứ đó gắn cho sự vong thân một
nền tảng duy vật, và hơn nữa, chối bỏ tính cách hợp pháp cũng như tính cách
tích cực của những quan hệ thị trường ngay trong chính lãnh vực riêng của thị
trường. Như vậy, người ta đi đến chỗ xác quyết rằng, vong thân chỉ có thể bị
loại trừ trong một xã hội theo kiểu tập thể chủ nghĩa. Thế mà, kinh nghiệm lịch
sử của các quốc gia xã hội chủ nghĩa, tiếc thay, lại đã minh chứng rằng chủ
nghĩa tập thể không những không loại bỏ mà còn làm gia tăng sự vong thân, bởi
vì chủ nghĩa đó tạo ra sự khan hiếm các của cải cần thiết cũng như sự vô hiệu
năng về kinh tế.
Về thế giới Tây Phương, kinh nghiệm lịch sử đã minh chứng rằng,
mặc dù phân tích theo Macxit về sự vong thân và các nền tảng của sự phân tích
đó là sai lạc, sự vong thân đó đánh mất ý nghĩa đích thực của cuộc sống cũng là
một thực tại trong các xã hội Tây Phương. Chúng ta nhận thấy điều đó trong phạm
vi tiêu thụ, khi mà sự tiêu thụ đưa đẩy con người vào trong một hệ thống nhằm
thỏa mãn các nhu cầu hời hợt và giả tạo, thay vì giúp con người có một kinh
nghiệm đích thực và cụ thể về nhân cách của mình. Sự vong thân cũng xuất hiện
trong lao động, khi mà lao động được tổ chức theo cách thức chỉ định giá theo
sự sản xuất và các hoa lợi của lao động chứ không lưu tâm nhận biết xem qua
công việc, người lao động có triển nở nhân tính của mình nhiều hay ít, tiếp
theo mức độ họ tham dự vào một cộng đoàn liên đới đích thực được gia tăng, hoặc
là lại trầm trọng thêm sự cô lập của họ giữa một tổng thể các tương quan mang
tính cách một sự cạnh tranh quá đáng và loại trừ lẫn nhau trong đó, con người
chỉ được coi như một phương tiện, chứ không như mục đích.
Cần phải tiến tới một quan niệm vong thân theo cái nhìn kitô giáo
về sự vật để có thể làm sáng tỏ những đảo lộn giữa phương tiện và mục đích: khi
không nhận biết giá trị sự cao cả của con người trong chính mình và trong người
khác, con người đánh mất khả năng hưởng thụ nhân tính của mình một cách thích
hợp và không thể gia nhập vào các tương quan liên đới, hiệp thông với những
người khác mà vì đó Thiên Chúa đã sáng tạo ra con người. Thực thế, chính nhờ sự
tự do dâng hiến chính mình mà con người trở thành đích thực là mình[81], và sự dâng
hiến này có thể thực hiện được bởi vì con người thiết yếu “có khả năng vươn
lên”. Con người không thể lao đầu vào một dự định hoàn toàn của con người đối
với thực tại, vào một lý tưởng trừu tượng hoặc một ảo tưởng sai lầm. Xét như
con người, họ có thể trao tặng mình cho một người khác, hoặc cho những người
khác, và cuối cùng cho Thiên Chúa, Đấng là tác giả của con người và là Đấng duy
nhất có thể đón nhận trọn vẹn sự dâng hiến này[82]. Con người
bị vong thân khi họ từ chối vươn tới siêu việt và từ chối dâng hiến chính mình,
kinh nghiệm xây dựng một cộng đồng đích thực hướng về cùng đích là chính Thiên
Chúa. Một xã hội là vong thân khi mà, trong các hình thức tổ chức xã hội, các
hình thức sản xuất và tiêu thụ, xã hội đó lại làm cho sự thực hiện việc dâng
hiến này và việc xây dựng liên đới giữa con người với nhau trở thành khó khăn
hơn.
Trong xã hội Tây Phương, sự bóc lột đã được vượt qua, ít là theo
những hình thức đã được Cacmac phân tích và mô tả. Trong khi đó, sự vong thân
chưa được vượt qua trong nhiều hình thức bóc lột khi mà con người trục lợi trên
người khác và khi vì để thỏa mãn một cách luôn tinh vi hơn các nhu cầu riêng
biệt và thứ yếu, người ta trở thành điếc trước nhu cầu thiết yếu và đích thực
của họ, những nhu cầu này cũng phải chi phối các cách thức thỏa mãn các nhu cầu
khác[83]. Con người
không thể tự do nếu họ chỉ, hoặc trước hết bận tâm về cái “có” và về sự thụ
hưởng đến nỗi không có khả năng làm chủ các bản năng, các đam mê, cũng không
thể hợp nhất và thống trị các bản năng và đam mê bằng sự tuân phục chân lý.
Tuân phục chân lý về Thiên Chúa và về con người, điều đó đối với họ, là điều
kiện trước tiên của tự do và cho phép con người sắp xếp các nhu cầu, các khao
khát và các cách thức thỏa mãn các điều đó theo một trật tự chính đáng, sao cho
sự chiếm hữu sự vật lại là một phương tiện phát triển đối với họ. Sự phát triển
này có thể bị ngăn cản do sự lèo lái của các phương tiện truyền thông, các
phương tiện này nhờ một kiểu nhấn mạnh có phối trí khéo léo đã áp đặt những
đường lối và những luồng dư luận, làm mất khả năng phê phán cách kỹ càng các
tiền đề chúng dựa vào.
42. Hai mặt của chủ nghĩa tư bản
Bây giờ trở lại vấn đề sơ khởi, phải chăng chúng ta có thể nói
rằng, sau khi chủ nghĩa cộng sản thất bại, chủ nghĩa tư bản là hệ thống xã hội
thắng thế và các quốc gia muốn tái xây dựng nền kinh tế và xã hội của mình phải
hướng về đó ? Phải chăng kiểu mẫu tư bản là điều phải đề nghị cho các quốc gia
thuộc thế giới thứ ba, là những quốc gia đang tìm một nẻo đường thăng tiến đích
thực nền kinh tế và xã hội dân sự của mình ?
Câu trả lời hiển nhiên là phức tạp. Nếu người ta hiểu từ ngữ “chủ
nghĩa tư bản” là một hệ thống kinh tế nhìn nhận vai trò căn bản và đích thực
của doanh nghiệp, của thị trường, của quyền tư hữu và trách nhiệm mà quyền đó
bao hàm trong các phương tiện sản xuất, của sự sáng tạo tự do của con người
trong ngành kinh tế, thì câu trả lời rõ ràng là tích cực, mặc dù có thể nói một
cách thích hợp rằng đó là một thứ “kinh tế doanh nghiệp” hoặc “kinh tế thị
trường”, hoặc đơn giản là “kinh tế tự do”. Nhưng nếu hiểu “chủ nghĩa tư bản” là
một hệ thống, trong đó sự tự do trong lãnh vực kinh tế không bị chi phối do một
khuôn khổ luật pháp vững chắc, luật pháp này nhằm để phục vụ tự do toàn vẹn của
con người và coi tự do là một chiều kích đặc biệt của con người mà trọng tâm là
trật tự đạo đức và tôn giáo, thì khi đó câu trả lời rõ ràng là tiêu cực.
Giải pháp Macxit đã thất bại, nhưng các hiện tượng như con người
bị loại ra bên lề, hiện tượng bóc lột vẫn còn trong thế giới, đặc biệt trong
thế giới thứ ba, cũng như các hiện tượng vong thân của con người, đặc biệt
trong các quốc gia tân tiến nhất, tiếng nói của Giáo hội đã mạnh mẽ chống lại
hiện tượng này. Một số đông dân chúng còn sống trong hoàn cảnh hết sức cùng khổ
về vật chất và luân lý. Chắc chắn sự thất bại của hệ thống cộng sản đã loại bỏ
được, trong nhiều quốc gia, một trở ngại trong việc nghiên cứu một cách thích
đáng và hiện thực các vấn đề này, nhưng điều đó không đủ để giải quyết chung.
Còn có một nguy cơ là sự lan tràn một ý thức hệ triệt để theo kiểu tư bản chủ
nghĩa, từ chối cả việc lưu ý xem xét các vấn đề trên, chấp nhận tiên thiên rằng
mọi cố gắng đối phó chỉ đưa tới thất bại, và chủ nghĩa đó theo nguyên tắc, chờ
đợi một giải pháp từ sự phát triển tự do các sức mạnh của thị trường.
43. Định hướng của Giáo hội về xã hội
Giáo hội không đề ra một khuôn mẫu nào cả. Các khuôn mẫu đích thực
và thực sự có hiệu quả chỉ có thể quan niệm được trong khung cảnh của các tình
huống lịch sử khác nhau, do nỗ lực của mỗi người có trách nhiệm, những người
này phải đối đầu với các vấn đề cụ thể dưới tất cả mọi khía cạnh xã hội, chính
trị, kinh tế, văn hóa bao hàm lẫn nhau[84]. Đứng trước
các trách nhiệm này, Giáo hội đưa ra học thuyết xã hội của mình, như một định
hướng tri thức không thể bỏ qua; học thuyết này như đã trình bày, nhìn nhận
tính cách tích cực của thị trường của doanh nghiệp, nhưng đồng thời cũng nhấn
mạnh tới sự cần thiết phải hướng tới công ích. Học thuyết này cũng nhìn nhận sự
hợp pháp của các nỗ lực của người lao động để có được một sự tôn trọng đầy đủ
đối với phẩm giá của mình và được tham dự nhiều hơn vào sinh hoạt doanh nghiệp,
sao cho trong khi làm việc cùng với những người khác và dưới sự hướng dẫn của
những người khác nữa, họ có thể, theo một nghĩa nào đó, làm việc “vì lợi ích
của mình”[85], bằng cách
sử dụng trí thông minh và tự do của mình.
Sự phát triển toàn vẹn một con người trong lao động, không chống
lại, nhưng đúng hơn cổ võ sức sản xuất tốt hơn và hiệu năng nhiều hơn của chính
lao động ngay cả khi điều đó có thể làm suy yếu các trung tâm quyền lực đã được
thiết lập. Doanh nghiệp không thể chỉ được coi như một “xã hội nguồn vốn”,
doanh nghiệp cũng đồng thời là một “xã hội các con người” trong đó, với những
cách thức khác nhau và với những trách nhiệm chuyên biệt, có sự tham gia của
những người đóng góp vốn cấn thiết cho doanh nghiệp hoạt động, và những người
cộng tác bằng lao động của mình. Để đạt được các mục tiêu này, vẫn còn cần
thiết có một phong trào rộng lớn quy tụ các người lao động mà mục đích của nó
là để giải phóng và thăng tiến toàn vẹn con người.
Dưới ánh sáng của “các sự việc mới” ngày nay, chúng ta đọc lại mối
liên hệ giữa các tài sản cá nhân hoặc tư hữu và tài sản dành cho mọi người. Con
người được triển nở do trí thông minh và sự tự do. Và khi triển nở như vậy, con
người sử dụng các yếu tố của thế giới và chiếm hữu chúng như là đối tượng và
như dụng cụ. Nền tảng của quyền có sáng kiến và có tư hữu nằm trong bản chất
hoạt động con người. Nhờ lao động, con người ra sức làm việc không những cho
chính mình, nhưng còn cho các người khác và với các người khác: mỗi người cộng
tác vào lao động và vào thiện hảo của người khác. Con người làm việc để cung
cấp cho các nhu cầu của gia đình mình, của cộng đoàn mình, của quốc gia mình,
và của toàn thể nhân loại[86]. Ngoài ra họ
cộng tác vào lao động của những người khác, những người hoạt động trong cùng
doanh nghiệp, cũng như cộng tác vào công việc của những người cung cấp và vào
sự tiêu thụ của khách hàng, trong một dây chuyền liên đới mỗi ngày mỗi lan
rộng. Quyền sở hữu các phương tiện sản xuất trong lãnh vực kỹ nghệ cũng như
trong lãnh vực nông nghiệp, là điều chính đáng và hợp lý, nếu như nó giúp lao
động sinh lợi ích; ngược lại, quyền đó là không chính đáng khi nó không phát
huy được giá trị, hoặc được dùng để ngăn cản lao động của người khác hầu có
được một lợi lộc, không phát sinh do sự phát triển đồng thời của lao động và
của nguồn phong phú xã hội, mà là do từ sự đặt giới hạn, do bóc lột bất chính,
do sự đầu cơ và cắt đứt tình liên đới thế giới lao động[87]. Cách thức
tư hữu này không chính đáng một chút nào và tạo nên một sự lạm dụng đối với
Thiên Chúa và đối với con người.
Sự bó buộc phải đổ mồ hôi để kiếm bánh ăn, đồng thời cũng giả
thiết một quyền lợi. Trong một xã hội mà quyền này có thể bị chối bỏ một cách
hệ thống và trong đó các biện pháp chính trị, kinh tế không cho phép người lao
động có đủ việc làm thì xã hội đó không thể có tính cách hợp pháp về đạo đức và
cũng không bảo đảm được sự yên lành trong xã hội[88]. Cũng như
con người tự thực hiện mình một cách trọn vẹn trong sự tự do ban tặng chính
mình, thì quyền tư hữu cũng là hợp lý xét theo tính cách luân lý, khi nó tạo ra
được, theo những cách thức và những nhịp điệu thích hợp, nhiều công việc làm và
sự phát triển nhân bản cho mọi người.
Chương Năm
Nhà Nước và văn hóa
44. Nguồn gốc của chủ nghĩa cực quyền hiện đại
Không phải Đức Lêô XIII không biết rằng cần phải có một lý thuyết
đúng đắn về nhà nước để đảm bảo cho những hoạt động tinh thần và những hoạt
động thể chất của con người được phát triển bình thường; cả hai đều là những
hoạt động không thể không có[89]. Về vấn đề
này, trong một đoạn văn của thông điệp RN, Đức Giáo Hoàng đã trình bày việc tổ
chức xã hội gồm ba quyền - lập pháp, hành pháp và tư pháp - và đối với lúc bấy
giờ, đây là điều mới mẻ trong giáo huấn của Giáo hội[90]. Một cơ cấu
như thế phản ánh một quan niệm thực tiễn về bản chất xã hội của con người, bản
chất đó đòi hỏi phải có một pháp chế thích hợp để bảo vệ sự tự do của mọi
người. Theo chiều hướng này, tốt hơn mỗi một quyền cần phải được những quyền
khác và những thẩm quyền khác giữ cho quân bình, giữ cho được ở trong những
giới hạn chính đáng. Đó là nguyên tắc “nhà nước pháp trị”, trong đó, luật pháp
chứ không phải những ý muốn độc đoán của con người có quyền tối cao.
Thời này, đi ngược lại quan niệm trên là chủ nghĩa cực quyền
(totalitarisme), chủ nghĩa này, dưới hình thức Macxit Leninit, cho rằng có một
số người nhờ hiểu biết sâu xa hơn về những quy luật phát triển xã hội, hoặc nhờ
thuộc về một giai cấp riêng biệt và nhờ tiếp xúc nhiều hơn với những nguồn mạch
sâu sắc nhất của ý thức tập thể, nên không mắc phải sai lầm, và vì thế, tự cho
mình là những người nắm quyền hành tuyệt đối. Cần thêm rằng chủ nghĩa cực quyền
phát xuất từ việc chối bỏ chân lý, hiểu theo nghĩa khách quan. Nếu như không có
chân lý siêu việt, nhờ vâng phục chân lý đó, con người đạt tới chân tính trọn
vẹn của mình, thì chẳng có một nguyên tắc nào chắc chắn có thể bảo đảm cho
những tương quan đúng đắn giữa con người với nhau. Những lợi ích riêng tư của
giai cấp, phe nhóm hoặc dân tộc khiến họ khó lòng tránh khỏi đối chọi với nhau.
Nếu chân lý siêu việt không được nhìn nhận, thì sức mạnh của quyền bình sẽ làm
bá chủ, và mọi người đều có khuynh hướng tận dụng tối đa những phương tiện mình
đang có để làm cho những lợi ích hoặc những tư kiến của mình thắng thế, không
thèm đếm xỉa đến những quyền lợi của người khác. Lúc đó, con người chỉ được tôn
trọng tùy theo mức độ họ có thể được sử dụng vào những mục tiêu có ưu thế vị
kỷ. Như thế, phải nói rằng gốc rễ của chủ nghĩa cực quyền hiện đại nằm ở thái
độ chối bỏ phẩm giá siêu việt của ngôi vị con người, hình ảnh hữu hình của
Thiên Chúa vô hình và chính vì thế, do chính bản tính của mình, con người là
chủ thể những quyền mà không một ai, dù là cá nhân, đoàn thể, giai cấp, dân tộc
hay nhà nước có thể xâm phạm. Ngay cả đa số trong một đoàn thể xã hội cũng
không thể xâm phạm các quyền đó bằng cách chống lại một thiểu số nhằm gạt họ ra
ngoài lề, đàn áp, khai thác hoặc tìm cách triệt tiêu họ[91]
45. Giáo hội, một trở ngại đối với nhà nước độc tài
Chủ trương và thực hành của chủ nghĩa cực quyền cũng gồm việc chối
bỏ Giáo hội. Nhà nước hoặc Đảng cho rằng mình có thể thực hiện điều thiện tuyệt
đối trong lịch sử và tự đặt mình lên trên mọi giá trị, nên nhà nước hoặc đảng
không chịu để cho người ta bênh vực một tiêu chuẩn khách quan về thiện và ác
khác với ý muốn của những người cầm quyền, và trong một số trường hợp, tiêu
chuẩn ấy còn được dùng để phê phán thái độ của những người ấy. Điều đó giải
thích tại sao chủ nghĩa cực quyền tìm cách triệt hạ Giáo hội, hoặc ít là bắt
Giáo hội phải chịu lệ thuộc, biến Giáo hội thành một công cụ phục vụ cho ý thức
hệ riêng của mình[92].
Đàng khác, nhà nước theo chế độ cực quyền còn có khuynh hướng nuốt
trọn dân tộc, xã hội, gia đình, cộng đồng tôn giáo và ngay cả những cá nhân con
người. Khi bênh vực quyền tự do của mình, Giáo hội cũng bênh vực con người, là
những kẻ phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người phàm (x. Cv 5,29),
đồng thời bênh vực gia đình, những tổ chức xã hội khác nhau và các dân tộc, là
những thực tại được hưởng quyền tự trị và quyền tối cao trong những phạm vi
riêng của mình.
46. Nền dân chủ đích thực
Giáo hội đánh giá cao hệ thống dân chủ, xét như một hệ thống bảo
đảm cho người công dân được quyền tham gia vào các lựa chọn chính trị, đồng
thời bảo đảm cho những người ở dưới quyền cai trị vừa được quyền chọn lựa và
kiểm soát những người cai trị mình, vừa được quyền thay đổi họ bằng những
phương thế ôn hòa khi điều đó thuận lợi[93]. Như vậy,
Giáo hội không thể tán thành thể chế chỉ có một nhóm người lãnh đạo giới hạn,
nắm hết quyền nhà nước nhằm phục vụ lợi ích riêng tư hoặc những mục tiêu ý thức
hệ.
Chỉ có thể có dân chủ thực sự trong một nhà nước pháp trị và dựa
trên một quan niệm đúng đắn về ngôi vị con người. Một nền dân chủ thực sự đòi
hỏi phải tạo điều kiện cần thiết cho việc phát triển “phẩm cách riêng” của xã
hội, thông qua việc sáng tạo những cơ cấu để mỗi người có thể tham gia và đồng
lãnh trách nhiệm. Ngày nay, có khuynh hướng khẳng định rằng chủ nghĩa bất khả
tri và chủ nghĩa tương đối hoài nghi là tượng trưng của triết lý và của thái độ
căn bản hợp với các hình thức dân chủ trong sinh hoạt chính trị cũng như khẳng
định rằng những người xác tín mình biết chân lý và gắn bó chặt chẽ với chân lý
là những người không đáng tín nhiệm xét về quan điểm dân chủ, bởi vì những
người đó không nhận rằng chân lý được quy định bởi đa số, hoặc chân lý có thể
biến chuyển tùy theo những thế quân bình chính trị khác nhau. Về vấn đề này,
cần nhận định rằng nếu không có một chân lý tối hậu chỉ đạo và hướng dẫn hoạt
động chính trị, thì những tư tưởng và những xác tín có thể bị khai thác dễ dàng
nhằm phục vụ quyền bính. Một nền dân chủ không tôn trọng những giá trị, sẽ dễ
dàng biến thành một chủ nghĩa cực quyền công khai hoặc được ngụy trang kín đáo,
như lịch sử từng minh chứng. Cũng không phải Giáo hội không biết đến
nguy cơ của thái độ cuồng tín hoặc chủ trương bảo thủ tôn giáo của những người nhân
danh một ý thức hệ tự nhận là có tính khoa học hay tôn giáo, cho răng có thể áp
đặt cho người khác quan niệm của mình về chân lý và sự thiện. Chân lý của kitô
giáo không thuộc loại này. Vì không phải là một ý thức hệ, nên đức tin kitô
giáo không hề tìm cách giam hãm những thực tại xã hội và chính trị, là những
thực tại hay thay đổi, vào một khuôn mẫu cứng ngắc, nhưng đức tin kitô giáo
nhìn nhận rằng cuộc đời con người diễn ra trong lịch sử bằng những cách thế
khác nhau và không hoàn hảo. Nhưng khi Giáo hội thường xuyên tái khẳng định
phẩm giá siêu việt của con người, qui luật hành động của Giáo hội bao giờ cũng
là tôn trọng tự do[94].
Thế nhưng tự do chỉ đạt tới mức độ phát triển trọn vẹn nhờ biết
đón nhận chân lý. Trong một thế giới không có chân lý tự do sẽ không có nền
tảng bền vững và con người phải chịu khuất phục bạo lực xuất phát từ những đam
mê và những thủ đoạn rõ ràng kín đáo. Người kitô hữu sống tự do (x. Gl 8,31-32),
và dấn thân phục vụ tự do, kiên trì giới thiệu chân lý mình đã khám phá đúng
theo bản chất của ơn gọi truyền giáo của mình. Nhờ lưu tâm đến mọi yếu tố của
chân lý mà họ đã khám phá qua kinh nghiệm trong đời sống và văn hóa của những
con người và những dân tộc khi đối thoại với người khác, họ sẽ không ngần ngại
khẳng định những gì họ đã biết nhờ niềm tin và nhờ dùng lý trí một cách đúng
đắn[95].
47. Nền dân chủ và sự tôn trọng nhân quyền Sau khi chủ
nghĩa cực quyền cộng sản cũng như nhiều chế độ cực quyền khác và các chế độ “an
ninh quốc gia” sụp đổ, hiện nay ta đang chứng kiến thành công của lý tưởng dân
chủ trong thế giới, tuy không phải là không có những dấu hiệu xung đột, song
song với mối quan tâm lớn lao và mối ưu tư mãnh liệt đối với các quyền con
người. Nhưng muốn đi theo chiều hướng này, các dân tộc đang trên đà cải tổ thể
chế của mình cần phải dành cho thể chế dân chủ một nền tảng đích thực và chắc
chắn nhờ biết nhìn nhận rõ rệt các quyền này[96]. Trong số
những quyền chính yếu, phải nói đến quyền được sống; thành phần toàn vẹn của
quyền được sống là quyền được lớn lên trong lòng mẹ sau khi thụ thai; tiếp đến
là quyền được sống trong một gia đình hòa thuận và trong một môi trường đạo đức
thuận tiện cho việc phát triển nhân cách; quyền được phát triển về trí tuệ và
tự do qua việc tìm kiếm và nhận biết chân lý; quyền được tham gia vào việc khai
thác những tài nguyên của trái đất và làm sản sinh ra của nuôi sống mình và
nuôi sống những người thân của mình; quyền được tự do xây dựng một gia đình,
đón nhận và dưỡng dục con cái bằng cách sử dụng tính dục một cách có trách
nhiệm. Theo một nghĩa nào đó, nguồn mạch và tổng hợp các quyền trên, chính là
quyền tự do tôn giáo, hiểu như quyền được sống trong chân lý của niềm tin của
mình và phù hợp với phẩm giá siêu việt của con người[97].
Ngay tại những quốc gia đã có những hình thức chính quyền dân chủ,
các quyền trên không phải lúc nào cũng được tôn trọng hoàn toàn. Ở đây ta không
chỉ nghĩ đến tệ nạn phá thai, nhưng còn cả những khía cạnh khác của cuộc khủng
hoảng các hệ thống dân chủ mà dường như đôi lúc đã làm biến chất khả năng đưa
ra những quyết định nhằm phục vụ công ích. Những yêu cầu của xã hội không phải
lúc nào cũng được cứu xét theo những tiêu chuẩn công bằng và đạo đức, nhưng
đúng hơn được cứu xét theo ảnh hưởng của việc bầu cử hoặc theo thế lực tài
chính của những nhóm ủng hộ những yêu cầu đó. Với thời gian, những sai lạc như
thế trong đường lối chính trị sẽ gây ra ngờ vực và lãnh đạm, đồng thời kéo theo
thái độ không thèm tham gia chính trị và làm giảm sút tinh thần công dân của
quần chúng, một quần chúng cảm thấy bị lợi dụng và lường gạt. Hậu quả là càng
ngày càng không thể xác định những lợi ích riêng tư trong khung cảnh một quan
niệm hợp lý về công ích. Quả vậy, công ích không phải chỉ là tổng số những lợi
ích riêng tư, nhưng nó giả thiết người ta phải đánh giá và hòa hợp những lợi
ích riêng tư theo bậc thang giá trị quân bình, và nói cho cùng, theo một quan
niệm đúng đắn về phẩm giá và các quyền của con người[98].
Giáo hội tôn trọng sự độc lập chính đáng của thể chế dân chủ và
Giáo hội không có tư cách để bảo rằng giải pháp thể chế hoặc lập hiến này hơn
giải pháp thể chế hoặc lập hiến kia. Đóng góp của Giáo hội đối với lãnh vực
chính trị chỉ là đóng góp quan điểm của mình về phẩm giá của con người, phẩm
giá được mạc khải trọn vẹn trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể[99].
48. Vai trò của nhà nước trong lãnh vực kinh tế
Những nhận xét tổng quát trên đây cũng được áp dụng cho vai trò
của nhà nước trong lãnh vực kinh tế. Không thể triển khai hoạt động kinh tế,
nhất là kinh tế thị trường, trong một môi trường không có thể chế pháp lý và chính
trị. Trái lại, hoạt động ấy giả thiết các quyền tự do cá nhân và quyền tư hữu
phải được bảo đảm, ấy là chưa kể đến một hệ thống tiền tệ ổn định và các dịch
vụ công cộng hữu hiệu. Như vậy, nhiệm vụ chính yếu của nhà nước là bảo đảm
những vấn đề trên, để những người lao động sản xuất có thể hưởng kết quả do sức
lao động họ đã bỏ ra, và nhờ đó họ cảm thấy được khích lệ để làm việc một cách
có hiệu quả và lương thiện. Một trong những trở ngại chính cho việc phát triển
và trật tự kinh tế tốt đẹp, đó là tình trạng bất ổn kèm theo sự băng hoại của
công quyền và sự gia tăng những cách làm giàu trái phép và chạy theo lợi nhuận
đễ dãi bằng những hoạt động phi pháp hay thuần túy có tính cách đầu cơ.
Một nhiệm vụ khác của nhà nước là giám sát và hướng dẫn việc thi
hành các quyền con người trong khu vực kinh tế; tuy nhiên trong lãnh vực này,
trách nhiệm hàng đầu không thuộc về nhà nước, nhưng thuộc về cá nhân, các nhóm
hoặc các tập thể khác nhau tạo nên xã hội. Nếu nhà nước trực tiếp bảo đảm cho
mọi công dân quyền có công ăn việc làm thì sẽ phải kiểm soát toàn bộ sinh hoạt
kinh tế, và như vậy cản trở quyền tự do sáng kiến của cá nhân (hoặc nhà nước
không thể đứng ra bảo đảm trực tiếp cho mọi công dân quyền có công ăn việc làm,
mà không kiểm soát toàn bộ sinh hoạt kinh tế ...). Thế nhưng, như thế không có
nghĩa là nhà nước không có một thẩm quyền nào trong khu vực này như chủ trương
của những người cho rằng tuyệt đối không nên có những luật lệ trong lãnh vực
kinh tế. Ngược lại, nhà nước có bổn phẩn nâng đỡ hoạt động của các xí nghiệp
bằng cách tạo những điều kiện giúp thêm việc làm, bằng cách thúc đẩy các hoạt
động ấy trong trường hợp còn yếu kém hoặc nâng đỡ trong những thời kỳ khủng
hoảng.
Nhà nước cũng có quyền can thiệp khi những hoàn cảnh đặc thù do
tình trạng độc quyền gây ra, có thể làm trì hoãn hoặc làm cản trở việc phát
triển. Nhưng ngoài vai trò điều hợp và hướng dẫn việc phát triển trong những
hoàn cảnh đặc biệt, nhà nước còn có thể thi hành những chức năng bổ sung, trong
những hoàn cảnh bất thường khi những nhóm xã hội hoặc các tổ hợp quá yếu hoặc
đang trong thời kỳ thành lập không đạt tới tầm vóc xứng với nhiệm vụ của mình.
Những can thiệp bổ sung này, được biện minh bằng những lý do cần hành động khẩn
cấp vì công ích, cần phải giới hạn về thời gian, càng ngắn càng tốt, để không
tước đi thẩm quyền của những nhóm hay những xí nghiệp ấy và để đừng mở rộng quá
đáng phạm vi can thiệp của nhà nước, có thể làm phương hại đến quyền tự do kinh
tế hoặc tự do dân sự.
Những năm gần đây, ta đã thấy những can thiệp này mở rộng phạm vi
một cách đáng kể, đến độ tạo ra một kiểu nhà nước mới gọi là “nhà nước vì sung
túc” (L'État du bien être). Chuyện này đã diễn ra tại một số quốc gia nhằm đáp
ứng nhiều nhu cầu một cách tốt hơn, bằng cách sửa chữa những hình thức nghèo
khổ và thiếu thốn, không xứng đáng với ngôi vị con người. Tuy nhiên đặc biệt
trong những năm gần đây, đã có nhiều thái quá và lạm dụng khiến người ta phê
bình nghiêm khắc nhà nước vì sung túc mà người ta gọi là “nhà nước bao cấp”
(L'État de l'assistance). Tình trạng rối loạn chức năng và những sai lầm về cứu
trợ xã hội xuất phát từ một quan niệm không thích hợp về những bổn phận riêng
của nhà nước. Trong bối cảnh này cần tôn trọng nguyên tắc bổ trợ: Một đoàn thể
cấp trên không được can thiệp vào sinh hoạt nội bộ của một đoàn thể cấp dưới,
bằng cách lấy mất những thẩm quyền của họ; đúng hơn, phải nâng đỡ đoàn thể đó
khi cần và giúp đoàn thể đó phối hợp hoạt động của mình với hoạt động của những
thành phần khác tạo nên xã hội, nhằm phục vụ công ích[100].
Khi can thiệp trực tiếp và lấy mất trách nhiệm của xã hội, nhà
nước bao cấp làm hao tổn năng lực của con người, làm cho bộ máy công cộng ra
cồng kềnh do cách lý luận quan liêu hơn là do quan tâm phục vụ quần chúng, cũng
như làm cho chi phí gia tăng kinh khủng. Thực vậy, có lẽ chính những người đang
gần gũi với nhu cầu hơn hoặc những người biết tiếp cận với nhu cầu phải là
người biết rõ nhu cầu hơn và chính họ phải là những người có khả năng đáp ứng
hơn. Cần thêm là thường thường một số loại nhu cầu đòi một sự đáp ứng không chỉ
trên lãnh vực vật chất, nhưng là sự đáp ứng biết nhận ra những đòi hỏi thâm sâu
hơn của con người. Ta cũng cần nghĩ đến điều kiện của những người tị nạn, di
cư, những người già lão hoặc bệnh tật và tất cả những người đang ở trong hoàn
cảnh cần được giúp đỡ, ví dụ những người nghiện ma túy: đó là tất cả những
người chỉ có thể được giúp đỡ một cách hữu hiệu nhờ những người không những chỉ
mang lại cho họ sự chăm sóc cần thiết, nhưng còn cả sự nâng đỡ chân thành.
49. Tình liên đới và bác ái
Trong lãnh vực này, trung thành với lệnh truyền của Chúa Kitô,
Đấng sáng lập Hội Thánh, Hội Thánh luôn luôn có mặt qua những công việc nhằm
cống hiến cho những người đang cần được nâng đỡ về vật chất, những không làm
cho họ cảm thấy nhục nhã, cũng như không coi họ chỉ là đối tượng cần được giúp
đỡ, nhưng là giúp họ thoát ra khỏi những điều kiện bấp bênh, bằng cách cũng cố
phẩm giá con người của họ. Trong tâm tình sốt sắng tạ ơn Thiên Chúa, cần phải
ghi nhận là đức bác ái tích cực không bao giờ ngừng hoạt động trong Hội Thánh,
thậm chí ngày nay, đức bác ái còn gia tăng một cách đáng khích lệ qua nhiều
hình thức. Về mặt này, cần được nhắc đến phong trào tự nguyện, được Hội Thánh
khích lệ và cổ võ bằng cách kêu gọi mọi người cộng tác để nâng đỡ và khích lệ
trong những bước đầu của phong trào này.
Ngày nay, muốn vượt qua não trạng vị kỷ đang lan tràn, cần có sự
dấn thân một cách cụ thể trong tình liên đới và bác ái, bắt đầu từ trong gia đình,
qua việc vợ chồng biết nâng đỡ nhau, rồi các thế hệ biết lãnh lấy trách nhiệm
đối với nhau. Chính vì thế, gia đình cũng được định nghĩa là cộng đoàn lao động
và liên đới. Tuy nhiên, có khi gia đình quyết định đáp ứng trọn vẹn ơn gọi của
mình, nhưng lại không tìm được sự nâng đỡ cần thiết về phía nhà nước và thiếu
những nguồn lợi cần thiết. Vì thế, phải cấp thời cổ võ không phải chỉ những
chính sách về gia đình, nhưng còn cả những chính sách về xã hội mà đối tượng
chính yếu là gia đình, nhưng chính sách giúp cho gia đình có những nguồn lợi
chính đáng và những phương thế nâng đỡ hữu hiệu cả trong việc giáo dục con cái
lẫn việc chăm sóc người già cả, để họ không phải xa lìa tổ ấm gia đình, đồng
thời tăng cường những mối liên kết giữa thế hệ trước với thế hệ sau[101].
Ngoài gia đình ra, còn có những nhóm xã hội trung gian khác đóng
vai trò hàng đầu và vận dụng những hệ thống liên đới đặc biệt. Những nhóm này
đã đạt được sự trưởng thành của những cộng đoàn đích thực và họ củng cố hệ
thống xã hội, tránh cho xã hội khỏi rơi vào tình trạng quần chúng vô ngã và vô
danh, là những điều thật đáng tiếc hay xảy ra trong xã hội hiện đại. Chính nhờ
sự giao thoa của bao mối quan hệ mà con người sống và “nhân cách” xã hội tiến
triển. Ngày nay, cá nhân thường bị đè bẹp giữa hai cực là nhà nước và thị
trường. Thực vậy, đôi khi dường như họ chỉ hiện hữu như là người sản xuất và
người tiêu thụ hàng hóa, hoặc như người bị nhà nước cai trị, trong khi đó người
ta quên đi rằng đời sống xã hội không nhằm mục đích nhà nước hay thị trường,
bởi vì đời sống xã hội tự nó có một giá trị duy nhất mà cả nhà nước lẫn thị
trường phải phục vụ. Con người tiên vàn là một hữu thể tìm kiếm chân lý và ra
sức sống theo chân lý đó, ra sức đào sâu chân lý bằng một cuộc đối thoại không
ngừng giữa những thế hệ đã qua và những thế hệ đang tới[102].
50. Di sản văn hóa
Văn hóa dân tộc có đặc tính là tìm kiếm chân lý một cách cởi mở;
Chân lý này được đổi mới qua mỗi thế hệ. Thực vậy, gia sản gồm những giá trị
được lưu truyền và thủ đắc, luôn luôn bị những người trẻ đặt thành vấn đề. Đặt
vấn đề không đương nhiên là phá hủy hay tiên thiên từ chối, nhưng đặt vấn đề có
nghĩa là đưa ra thử nghiệm trong đời sống riêng của mình. Thông qua cách nghiệm
chứng sinh động như thế, các giá trị ấy trở nên sống động hơn, hiện tại hơn và
cá nhân hơn, bằng cách phân biệt trong truyền thống cái gì có giá trị, cái gì
giả dối hoặc sai lầm, hay thay thế những hình thức già nua cũ kỹ bằng những
hình thức thích hợp với thời đại hơn.
Về vấn đề này, cần nhắc lại rằng việc loan bao Tin mừng phải đi
sâu vào văn hóa các dân tộc, bằng cách củng cố nỗ lực tìm kiếm chân lý nơi nền
văn hóa đó và giúp nền văn hóa đó hoàn tất nỗ lực thanh lọc và đi vào chiều sâu[103]. Tuy
nhiên, khi một nền văn hóa tự đóng kín và tìm cách tồn tại với những cách sống
cũ kỹ, từ chối mọi thứ thay đổi và đối chiếu trong vấn đề chân lý về con người,
thì nền văn hóa ấy trở nên cằn cỗi và đang trên đà suy sụp.
51. Phần đóng góp của Giáo hội trong vấn đề văn hóa
Mọi hoạt động của con người đều diễn ra trong một nền văn hóa và
phản ứng đối chiếu đối với nền văn hóa đó. Để kiến tạo một nền văn hóa thích
hợp cần mỗi người phải tham gia, phải phát triển sức sáng tạo trí tuệ và sự
hiểu biết về thế giới và con người. Ngoài ra, họ còn phải đầu tư vào đó những
khả năng tự chủ, hy sinh cá nhân, biết liên đới và sẵn sàng cổ võ công ích. Để
thực hiện điều đó, nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng nhất được thực hiện nơi tâm
hồn con người, và cách con người dấn thân để kiến tạo tương lai của mình lệ
thuộc vào quan niệm họ có về chính họ và về định mệnh của họ. Giáo hội góp phần
đặc biệt và quyết định vào văn hóa đích thực chính trên bính diện này. Giáo hội
cổ võ phẩm tính của những cách thế hành động nào của con người góp phần làm
thành hình một nền văn hóa xây dựng hòa bình, ngược với những mô hình văn hóa
khiến cho con người mất hút trong đám đông, coi thường vai trò sáng kiến và tự
do của họ, cũng như chỉ xác định sự cao cả của con người nơi những kỹ thuật tạo
ra xung đột và chiến tranh. Giáo hội thi hành công tác phục vụ đó bằng cách rao
giảng chân lý về việc sáng tạo thế giới, thế giới mà Thiên Chúa đã đặt vào tay
con người để con người làm cho nó phong phú và kiện toàn nó nhờ sức lao động
của mình; Giáo hội cũng thi hành công tác phục vụ đó bằng cách rao giảng chân
lý về ơn cứu chuộc, nhờ đó Con Thiên Chúa đã cứu thoát mọi người và đồng thời
nối kết họ với nhau, làm cho họ có trách nhiệm đối với nhau. Kinh Thánh thường
xuyên dạy chúng ta về việc tích cực dấn thân phục vụ tha nhân và đòi hỏi mọi
người phải có một thái độ đồng trách nhiệm.
Đòi hỏi này không dừng lại ở giới hạn gia đình, thậm chí dân tộc
hay quốc gia, nhưng nó liên quan một cách tiệm tiến đến toàn thể nhân loại, đến
độ không ai được coi mình như người xa lạ hoặc dửng dưng đối với số phận của
một phần tử khác trong gia đình nhân loại. Không một người nào có thể quả quyết
rằng mình không chịu trách nhiệm về số phận của người anh em mình (x. St 4,9;
Lc 10,29-37; Mt 25,31-46) ! Thái độ ân cần và tận tâm lo lắng cho người thân
cận vào lúc họ đang cần - thái độ này ngày nay được dễ dàng hơn nhờ có những
phương tiện truyền thông xã hội mới mẻ giúp cho con người xích lại gần nhau hơn
- có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc tìm kiếm những phương thức giải
quyết các xung đột quốc tế mà không cần phải dùng đến chiến tranh. Chẳng khó khăn
gì khi phải quả quyết rằng sức mạnh khủng khiếp của những phương tiện hủy diệt
- ngay cả những nước nhỏ hoặc trung bình cũng có - cũng như những quan hệ ngày
càng chặt chẽ giữa các dân tộc trên toàn trái đất làm cho sự hạn chế những hậu
quả của một cuộc xung đột trở nên rất khó khăn hoặc thực tế không thể được.
52. Phát triển và phản chiến
Đức Benedicto XV và các Đấng kế vị đã yểu rõ nguy cơ này[104], và chính
bản thân tôi, nhân cuộc chiến tranh thương đau vừa xảy ra tại vùng vịnh Péc
xích, tôi đã lặp lại tiếng kêu: “Đừng bao giờ còn chiến tranh nữa!” Đừng, đừng
bao giờ còn chiến tranh nữa, một chiến tranh hủy diệt mạng sống của những người
vô tội, một chiến tranh đầy chém giết, và đảo lộn cả cuộc đời của những người
chém giết, một chiến tranh để lại đàng sau một chuỗi những hận thù và ghen ghét
khiến cho càng khó tìm ra một giải pháp đúng đắn cho chính những vấn đề đã làm
cho chiến tranh bùng nổ ! Cũng như cuối cùng đã đến lúc bên trong các nhà nước,
hệ thống bảo thủ cá nhân và những việc cấp bách bây giờ là phải thực hiện một
bước tiến tương tự trong cộng đồng quốc tế. Đàng khác, không nên quên rằng: tận
gốc rễ của chiến tranh, thường có những động lực thực sự và trầm trọng, đó là
những bất cộng, sự tước đoạt những khát vọng hợp pháp, sự bần cùng và khai thác
đám người tuyệt vọng không còn thấy khả năng thực sự có thể cải thiện điều kiện
sống của mình nhờ những phương thế ôn hòa. chính vì thế, tên gọi khác của hòa
bình là phát triển[105]. Cũng như
phải có một trách nhiệm tập thể để tránh chiến tranh, thì cũng cần có một trách
nhiệm tập thể để cổ võ việc phát triển. Trên bình diện nội bộ của mọi xã hội,
đó là điều có thể và là một bổn phận phải xây dựng một nền kinh tế xã hội nhằm
phục vụ công ích; cũng cần có những can thiệp thích hợp để thực hiện điều đó
trên bình diễn quốc tế. Muốn được như vậy cần phải có một cố gắng to lớn để tạo
sự cảm thông và hiểu biết lẫn nhau và để làm cho lương tâm thêm bén nhạy. Đó
chính là nền văn hóa đáng mơ ước vì nó gia tăng sự tin tưởng đối với những khả
năng nhân bản nơi người nghèo, và như thế là tín nhiệm vào khả năng họ có thể
cải thiện điều kiện sống nhờ làm việc, hoặc có thể đóng góp tích cực vào sự
thịnh vượng kinh tế. Nhưng để đạt tới đó, người nghèo - cá nhân hay quốc gia -
cần phải được cung cấp những điều kiện sống thuận lợi có thể đạt được một cách
sụ thể. Sáng tạo ra những điều kiện ấy, đó chính là mục đích của cuộc bàn thảo
quốc tế nhằm cổ võ phát triển; điều này giả thiết ngay cả phải hy sinh những ưu
thế về lợi nhuận và quyền lực, là những điều mà các nền kinh tế phát triển nhất
vẫn tự hào[106].
Điều đó có thể đòi phải có những thay đổi quan trọng trong những
lối sống đã ổn định, hầu hạn chế những hoang phí tài nguyên thiên nhiên và năng
lực con người; để mọi dân tộc và mọi người trên trái đất có thể sử dụng những
tài nguyên và năng lực đó theo mức độ thích đáng. Thêm vào đó, cũng cần phải
khai thác những tài nguyên mới về vật chất và tinh thần, kết quả của sức lao
động và của văn hóa các dân tộc ngày nay đang bị gạt ra ngoài lề, như thế gia
đình các dân tộc mới đạt tới chỗ phong phú toàn diện của con người.
Chương VI
Con người là con đường của Giáo hội
53. Giá trị độc đáo của mỗi con người
Đứng trước nỗi khốn cùng của giai cấp vô sản, Đức Lêô XIII đã
viết: “Chúng tôi đề cập đến vấn đề này với niềm xác tín và với tất cả quyền hạn
của chúng tôi (...), chúng tôi im lặng thì nhiều người sẽ xem chúng tôi là thờ
ơ với bổn phận của mình”[107]. Suốt một
trăm năm qua, Giáo hội đã nhiều lần bày tỏ tư tưởng của mình trong khi theo sát
với đà tiến không ngừng vấn đề xã hội. Và Giáo hội làm như thế không phải là để
tìm lại những đặc quyền trong quá khứ hoặc để áp đặt quan điểm của mình. Mục
tiêu duy nhất của Giáo hội là thể hiện mối quan tâm và trách nhiệm của mình đối
với con người đã được chính Đức Kitô uỷ thác cho: con người đó, như Công đồng
Vat.II nhắc lại, là tạo vật duy nhất trên trái đất mà Thiên Chúa đã muốn dựng
nên vì chính họ và Người đã có dự định cho họ được dự phần vào ơn cứu độ vĩnh
cửu. Đó không phải là con người “trừu tượng” nhưng là con người thực tế, con
người “cụ thể”, “mang lịch sử tính”. Đó là vấn đề “mỗi con người”, vì mỗi con
người đều nằm trong mầu nhiệm cứu chuộc, và qua mầu nhiệm này, Đức Kitô đã mãi
mãi liên kết với từng người[108]. Do đó
Giáo hội không thể từ bỏ con người và “con người” là con đường của đầu tiên
Giáo hội phải đi qua để chu toàn sứ vụ của mình (...), con đường này đã được
chính Đức Kitô vạch ra, đó là con đường nhất thiết đi qua mầu nhiệm nhập thể và
mầu nhiệm cứu chuộc[109].
Đó là nguyên tắc và là nguyên tắc độc nhất gợi lên giáo thuyết của
Giáo hội về xã hội. Nếu Giáo hội đã dần dần triển khai giáo thuyết đó một cách
có hệ thống, đặc biệt kể từ thời điểm mà chúng ta đang kỷ niệm, chính là do học
thuyết phong phú đó của Giáo hội đã nhắm đến con người trong thực tế cụ thể của
họ là tội lỗi và công chính.
54. Đặc biệt ngày nay, giáo thuyết về xã hội quan tâm đến con
người xét như được hội nhập vào một hệ thống phức tạp của những tương quan giữa
các xã hội hiện đại. Những khoa nhân văn và triết học giúp hiểu rõ con người
được đặt ở trung tâm của xã hội và giúp họ hiểu rõ hơn mình là một hữu thể mang
tính xã hội. Nhưng chỉ có niềm tin mới mạc khải cho họ trọn vẹn căn tính đích
thực của mình, và chính niềm tin mới là khởi điểm của giáo thuyết của Giáo hội
về xã hội, và Giáo hội dựa vào những đóng góp của các khoa học và triết học để
trợ giúp con người trên đường cứu độ.
Thông điệp RN có thể coi như một đóng góp quan trọng vào việc phân
tích kinh tế, xã hội của cuối thế kỷ XIX nhưng sở dĩ thông điệp này có được giá
trị đặc biệt là vì nó là một văn kiện của huấn quyền đi đúng với sứ vụ rao
giảng tin mừng của Giáo hội đồng thời với nhiều văn kiện khác cùng loại. Do đó
có thể suy ra rằng giáo thuyết về xã hội tự nó có giá trị như một công cụ để
loan báo tin mừng: xét như thế, giáo thuyết này đã loan báo cho mọi người về
Thiên Chúa và mầu nhiệm cứu độ nơi Đức Kitô, và cũng vì thế nó mạc khải cho con
người về chính mình. Dưới ánh sáng đó và chỉ dưới ánh sáng đó, giáo thuyết ấy
quan tâm đến các vấn đề khác như: các quyền con người nơi mỗi cá nhân và đặc
biệt nơi “giai cấp vô sản”, gia đình và việc giáo dục, những nghĩa vụ của nhà
nước, việc tổ chức xã hội về mặctquốc gia và quốc tế, đời sống chính trị, văn
hóa, chiến tranh và hoà bình, việc tôn trọng sự sống từ khi thụ thai cho tới
lúc chết.
55. Thiên Chúa giải thích lý do hiện hữu của con người
Giáo hội nhận được từ mạc khải của Thiên Chúa “ý nghĩa về con
người”. “Để nhận biết con người, con người thực, con người trọn vẹn, phải nhận
biết Thiên Chúa”, như Đức Phaolô VI đã nói, và ngay sau đó ngài trưng dẫn Thánh
nữ Catarina Xiena, vị thánh này đã diễn tả cùng một ý tưởng đó dưới hình thức
lời cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa vĩnh cửu, trong bản tính của Chúa, con nhận
biết bản tính của con"[110].
Vì thế, trong thực tế, khoa nhân học kitô giáo là một chương trong
thần học, và, cũng vì thế, giáo thuyết của Giáo hội về xã hội, khi quan tâm lưu
ý đến con người và đến cách sống của họ trong thế giới, “thuộc về (...) lãnh
vực thần học và đặc biệt thần học luân lý”[111]. Như thế,
chiều kích thần học thật cần thiết vừa để giải thích cũng như để giải quyết
những vấn đề hiện nay trong việc chung sống của con người. Thật cũng nên lưu ý
rằng điều đó có giá trị vừa cho giải pháp “vô thần”, một giải pháp đã loại trừ
một trong những thành phần nền tảng của con người, đó là chiều kích thiêng
liêng, và vừa cho những giải pháp gợi lên do chủ trương buông thả và tinh thần
hưởng thụ, đây là những giải pháp viện nhiều cớ khác nhau để tìm cách thuyết
phục con người về sự độc lập của họ đối với Thiên Chúa và mọi luật lệ, trong
khi giam hãm họ trong một thứ ích kỷ rốt cuộc chỉ nguy hại cho chính họ và cho
người khác.
Khi loan báo cho con người ơn cứu độ của Thiên Chúa, khi bày tỏ
cho con người sự sống của Thiên Chúa và thông ban sự sống đó cho họ qua các
nhiệm tích, khi hướng dẫn đời sống họ bằng các giới luật mến Chúa, yêu người,
Giáo hội đóng góp vào việc làm phong phú phẩm giá của họ. Nhưng cũng như Giáo
hội không bao giờ có thể hủy bỏ sứ mạng tôn giáo và siêu việt của mình đối với
con người, thì cũng thế, Giáo hội nhận thấy rằng công cuộc của mình hôm nay
đang gặp phải những khó khăn và những trở ngại đặc biệt. Bởi đó Giáo hội dấn
thân với những nỗ lực và những phương thế luôn luôn mới mẻ cho việc Phúc âm hóa
nhằm bảo đảm việc thăng tiến toàn thể con người. Trước thềm thiên niên kỷ thứ
ba, Giáo hội vẫn luôn là “dấu chỉ và bảo đảm tính cách siêu việt của ngôi vị con
người”[112], cũng như
Giáo hội đã từng luôn cố gắng làm như thế ngay từ buổi đầu trong khi đồng hành
với con người suốt chiều dài lịch sử. Thông điệp RN là một dấu chỉ đầy ý nghĩa
về việc đó.
56. Hiểu biết giáo thuyết của Giáo hội về xã hội
Trong dịp kỷ niệm 100 năm thông điệp đó, tôi muốn cám ơn tất cả
những ai đã có công nghiên cứu, đào sâu và truyền bá giáo thuyết của kitô giáo
về xã hội. Để được như vậy, không thể thiếu sự cộng tác của các Giáo hội địa
phương và tôi mong ước rằng việc kỷ niệm 100 năm này phải là cơ hội cho một đà
tiến mới để nghiên cứu, truyền bá và áp dụng giáo thuyết này trong nhiều lãnh
vực.
Đặc biệt tôi mong ước rằng người ta phổ biến và áp dụng giáo
thuyết ấy trong những quốc gia mà, sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện
thực, dường như người ta hoàn toàn mất định hướng khi đứng trước nhiệm vụ tái
thiết. Về phần mình chính các nước Tây phương cũng đang gặp phải nguy cơ là coi
sự sụp đổ đó như cuộc chiến thắng một chiều của hệ thống kinh tế của mình và vì
thế, không quan tâm ngay đến những chỉnh đốn cần thiết trong hệ thống đó. Còn
đối với thế giới thứ ba, hơn bao giờ hết, họ đang gặp phải những hoàn cảnh thê
thảm của sự kém phát triển ngày càng gia tăng.
Đức Lêô XIII sau khi đã đưa ra những nguyên tắc và những chỉ dẫn
để giải quyết vấn đề thợ thuyền, đã đưa ra khẩu hiệu: “Ước chi mỗi người đừng
trì hoãn việc góp phần mình kẻo vì chậm trễ mà sự dữ vốn rất trầm trọng lại trở
thành bất trị”. Và ngài thêm: “Về phần Giáo hội, Giáo hội sẽ không bao giờ
thiếu sót bổn phận mình bằng bất cứ cách nào”[113].
57. Sứ điệp của Giáo hội về xã hội
Đối với Giáo hội, sứ điệp Tin mừng về xã hội không được coi là một
lý thuyết nhưng trước hết phải coi là một nền tảng và nguồn động lực để hoạt
động. Được thôi thúc bởi sứ điệp đó, một số kitô hữu tiên khởi đã chia sẻ của
cải mình cho những người nghèo, điều đó cho thấy rằng dù nguồn gốc xã hội khác
nhau nhưng việc chung sống hài hòa và liên đới là có thể được. Trải qua các thế
kỷ, nhờ sức mạnh của Tin mừng, các đan sĩ đã khai thác đất đai, các tu sĩ nam
cũng như nữ đã thiết lập những bệnh viện và những viện tế bần, những hội từ
thiện, cũng như những người nam nữ thuộc đủ mọi hoàn cảnh sống đã dấn thân trợ
giúp những người túng thiếu và những người bị gạt ra ngoài xã hội, với niềm xác
tín rằng lời của Đức Kitô “những gì các ngươi đã làm làm cho một trong các anh
em hèn mọn nhất này của ta, là các ngươi đã làm cho chính mình ta” (Mt 25,40)
không thể chỉ là một lời cầu chúc đạo đức suông nhưng phải trở thành một sự dấn
thân sụ thể trong cuộc sống.
Hơn bao giờ hết, Giáo hội nhận thức rằng sứ điệp về xã hội sẽ phải
trở nên khả tín qua chứng tá bằng việc làm hơn là do sự mạch lạc và hợp lý nội
tại của sứ điệp đó. Từ niềm xác tín ấy dẫn đến sự lựa chọn ưu tiên về phía
người nghèo, sự lựa chọn này không bao giờ mang tính cách loại trừ và phân biệt
đối xử với những nhóm người khác. Thực sự, sự lựa chọn này không chỉ giới hạn
vào nghèo đói về vật chất. Ta biết rõ ràng, nhất là trong xã hội ngày nay, có
những hình thức nghèo đói, về mặt kinh tế cũng như về mặt văn hóa và tôn giáo.
Tình yêu của Giáo hội đối với người nghèo đói là điểm chính yếu và là thành
phần trong truyền thống bền vững của Giáo hội, đã thôi thúc Giáo hội quay về
với thế giới mà trong đó, mặc dù có những tiến bộ về mặt kỹ thuật và kinh tế,
sự nghèo đói vẫn đe dọa trở nên rất trầm trọng. Tại những nước Tây phương, nơi
có nhiều hình thức nghèo đói của những người bị gạt ra ngoài xã hội, những
người tuổi tác và những bệnh nhân, những nạn nhân của nền văn minh tiêu thụ và
nhất là sự nghèo đói của rất nhiều người tị nạn và di dân; tại những nước đang
phát triển, người ta thấy đang manh nha những khủng hoảng sẽ thê thảm nếu người
ta không kịp thời có những biện pháp phối trí trên bình diện quốc tế.
58. Cổ võ cho công lý
Tình yêu thương đối với con người, và trước hết đối với người
nghèo, nơi họ, Giáo hội nhìn thấy Đức Kitô, được diễn tả cụ thể bằng việc cổ võ
công lý. Việc cổ võ này sẽ không bao giờ được thực hiện nếu người ta không coi
người đang túng thiếu, người xin sự nâng đỡ để sống, như người quấy rầy hoặc
như gánh nặng, nhưng coi đó là lời mời gọi để làm việc nghĩa, một cơ may để nên
phong phú hơn. Chỉ có ý thức đó mới đem lại cam đảm để dám đương đầu với những
nguy cơ và những biến đổi trong mọi nỗ lực đích thực nhằm trợ giúp người. Quả
thực, không phải chỉ là việc cho đi những thứ dư thừa nhưng là mang lại sự trợ
giúp sao cho toàn bộ những dân tộc bị gạt ra ngoài cũng như bị loại trừ được
hội nhập vào chu kỳ phát triển về mặt kinh tế và nhân bản. Điều này có thể thực
hiện được, không những do của cải dư thừa được sản xuất dồi dào trên thế giới,
nhưng nhất là bằng cách người ta đổi lối sống, thay đổi những kiểu thức sản
xuất và tiêu thụ, những cơ cấu quyền bính đã được thiết lập đang điều hành các
xã hội hiện nay. Cũng không phải là phá hủy những công cụ tổ chức xã hội đang
chứng tỏ có hiệu năng, nhưng chính là hướng những công cụ ấy theo một quan niệm
chính đáng về ích lợi chung của toàn thể gia đình nhân loại. Ngày nay đang diễn
ra cái gọi là “hoàn cầu hóa nền kinh tế”, đó là một hiện tượng không thể chối
bỏ được, vì nó có thể tạo nên những cơ hội đặc biệt để sống tốt đẹp hơn. Nhưng
người ta luôn cảm thấy rõ rệt hơn sự cần thiết là kèm với việc quốc tế hóa về
mặt kinh tế ngày cang gia tăng, cần có những cơ quan quốc tế hữu hiệu nhằm kiểm
soát và điều chỉnh để hướng dẫn chính nền kinh tế đến công ích, điều mà không
một quốc gia nào, cho dù là thế lực nhất trên địa cầu, có khả năng thực hiện
được. Để đạt được kết quả như thế, phải gia tăng sự phối hợp giữa các quốc gia
lớn. Và, trong tổ chức chuyên biệt, những phúc lợi của đại gia đình nhân loại
phải được lưu ý một cách công bình. Đồng thời trong khi ước lượng những hậu quả
do những quyết định của mình, các quốc gia và những cơ quan đó phải luôn luôn
quan tâm đúng mức đến các dân tộc và những quốc gia không mấy quan trọng trên
thị trường quốc tế nhưng lại đang phải gánh chịu những thiếu thốn cơ cực nhất,
thê lương nhất và cần được nâng đỡ nhiều hơn để phát triển. Chắc chắn rằng còn
nhiều việc phải làm trong lãnh vực này.
59. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử
ĐỂ công lý được thể hiện và để những mưu tính của con người nhằm
thực thi công lý đạt được thành quả, thì nhất thiết cần có ân sủng của Thiên
Chúa. Nhờ ân sủng, cùng với sự cộng tác của tự do con người, sự hiện diện mầu
nhiệm của Thiên Chúa Đấng quan phòng, sẽ được thực hiện trong lịch sử.
Sự đổi mới mà người ta cảm nghiệm được nhờ việc theo Đức Kitô phải
được thông truyền cho những người khác trong thực tế cụ thể của những khó khăn
của họ, của những cuộc đấu tranh, những vấn đề và những thách đố của họ, sao
cho tất cả những điều đó được soi chiếu và trở nên nhân bản hơn nhờ ánh sáng đức
tin. Quả thực, đức tin không chỉ giúp tìm ra những giải pháp, mà còn giúp chịu
đựng một cách nhân bản, những hoàn cảnh khổ đau, để trong những hoàn cảnh đó,
con người không bị băng hoại và không quên đi phẩm giá cũng như ơn gọi của
mình.
Ngoài ra, giáo thuyết về xã hội còn có một liên quan hệ trọng với
các môn học khác (interdisciplinaire). Để đưa chân lý độc nhất liên quan đến
con người vào trong những bối cảnh xã hội, kinh tế và chính trị khác nhau và
biến đổi liên tục, giáo thuyết ấy phải đối thoại với những môn học khác nhau
chuyên về con người. Giáo thuyết đó tiếp thu những hỗ trợ của những môn học ấy
và giúp định hướng những môn học ấy, trong một nhãn giới rộng lớn hơn, nhằm
phục vụ con người, được nhận biết và yêu mến trong sự viên mãn của ơn gọi mình.
Bên cạnh chiều kích liên hệ hỗ tương này, cũng cần nhắc đến chiều
kích thực dụng và theo một nghĩa nào đó, là chiều kích thực nghiệm của giáo
thuyết này. Học thuyết xã hội của Giáo hội hình thành do sự gặp gỡ giữa đời
sống và lương tri kitô giáo với những hoàn cảnh của thế giới, và biểu lộ trong
những nỗ lực được thực hiện bởi những cá nhân, những gia đình, những chuyên gia
về văn hóa và xã hội, những chính trị gia và những chính khách nhằm đem lại cho
giáo thuyết ấy mô hình cũng như việc áp dụng cụ thể vào lịch sử.
60. Sự hợp tác của mọi người thiện chí
Khi nêu lên những nguyên tắc giải quyết vấn đề thợ thuyền, Đức Lêô
XIII viết: “Một vấn đề quan trọng như thế này đòi hỏi những hoạt động và những
nỗ lực của những người khác”[114]. Ngài xác
tín rằng, những vấn đề quan trọng gây nên do xã hội công nghiệp chỉ có thể được
giải quyết bằng sự hợp tác mọi sức lực. Khẳng định đó trở thành một yếu tố vĩnh
cửu trong giáo thuyết của Giáo hội về xã hội, và điều đó đã giải thích rõ ràng
lý do tại sao Đức Gioan XXIII đã gửi thông điệp của Ngài về hòa bình cho “mọi
người thiện chí”.
Tuy nhiên, Đức Lêô XIII buồn phiền nhận thấy rằng những ý thức hệ
thời đại Ngài, đặc biệt là chủ thuyết tự do và chủ nghĩa Macxit đã từ chối sự
hợp tác. Kể từ đó đã có biết bao nhiêu điều thay đổi nhất là những năm gần đây.
Ngày nay thế giới ngày càng ý thức hơn việc giải quyết những vấn đề nghiêm
trọng mang tầm mức quốc gia cũng như quốc tế, không phải chỉ là vấn đề về sản
xuất kinh tế hay tổ chức pháp chế hoặc xã hội nhưng đòi hỏi chấp nhận những giá
trị nhất định về đạo đức và tôn giáo, cũng như phải có một sự thay đổi về não
trạng, về lối sống và về những cơ chế. Giáo hội đặc biệt cảm thấy bổn phận phải
đóng góp vào công việc đó, và như tôi đã viết trong thông điệp SRS, có hy vọng
hợp lý rằng ngay cả đông đảo những người không tuyên xưng tôn giáo nào vẫn có
thể đóng góp để đem lại cho vấn đề xã hội một nền tảng đạo đức cần thiết[115].
Cũng trong văn kiện đó, tôi đã kêu mời Giáo hội kitô giáo và tất
cả những tôn giáo lớn trên thế giới, hãy đồng tâm làm chứng cho những xác tín
chung về phẩm giá của con người được Thiên Chúa tạo dựng[116]. Quả thực,
tôi xác tín rằng hiện nay cũng như trong tương lai những tôn giáo sẽ có vai trò
quan trọng nổi bật hơn trong việc duy trì hòa bình và việc thiết lập một xã hội
xứng với con người.
Đàng khác, đòi hỏi tất cả mọi người thiện chí hãy sẵn sàng đối
thoại và cộng tác, và điều này đặc biệt đối với những người cũng như những nhóm
có trách nhiệm riêng trong những lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội, dù ở
tầm mức quốc gia hay quốc tế.
61. Những thách đố mới
Buổi đầu của xã hội công nghiệp, chính sự xuất hiện của một thứ
“ách gần như nô lệ” đã đòi buộc vị tiền nhiệm của tôi phải lên tiếng để bênh
vực con người. Giáo hội vẫn trung thành với nhiệm vụ đó suốt 100 năm qua. Quả
thực, Giáo hội đã can thiệp vào thời kỳ hỗn độn vì đấu tranh giai cấp, sau thế
chiến thứ I, để bênh vực quyền con người khỏi bị bóc lột về kinh tế và ách
thống trị của các hệ thống cực quyền. Sau thế chiến thứ II, Giáo hội tập trung
những sứ điệp về xã hội vào phẩm giá của con người bằng việc nhấn mạnh rằng của
cải vật chất được dành cho mọi người, về một trật tự xã hội không còn áp bức và
dựa trên tinh thần hợp tác và liên đới. Giáo hội không ngừng nhắc lại rằng con
người và xã hội không chỉ cần những của cải này, nhưng còn cần những giá trị
thiêng liêng và tôn giáo. Ngoài ra, Giáo hội vì ý thức rằng có rất nhiều người
không được sống trong cảnh sung túc của thế giới Tây phương, họ đang phải chịu
những nỗi khốn cùng của những xứ đang trên đà phát triển và ở trong một tình
trạng vẫn còn là “dưới ách gần như nô lệ"” nên đã cảm thấy và hiện đang
cảm thấy buộc phải tố cáo thực trạng này hết sức minh bạch và thẳng thắn, mặc
dù Giáo hội biết rằng những lời kêu gọi của mình không phải luôn luôn được mọi
người sẵn sàng chấp nhận.
Một trăm năm sau khi ban hành thông điệp RN, Giáo hội vẫn còn đang
gặp phải những “sự việc mới” và những thử thách mới. Chính vì lẽ đó, việc kỷ
niệm 100 năm này phải củng cố tất cả những ai thiện chí và đặc biệt người tín
hữu trong nỗ lực của họ.
62. Trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ thứ ba
Thông điệp này muôn nhìn lại quá khứ nhưng nhất là hướng đến tương
lai. Cũng như thông điệp RN, thông điệp này đứng trước thềm kỷ nguyên mới và
với sự trợ lực của Thiên Chúa, thông điệp muốn dọn đường cho kỷ nguyên đó.
Sự mới mẻ chân thực và vĩnh cửu nơi muôn vật luôn luôn bắt nguồn
từ quyền năng vô biên của Thiên Chúa, Đấng đã phán: “Này đây ta đổi mới mọi sự”
(Kh 21,5). Nhưng lời này nói đến sự thành toàn của lịch sử, khi Đức Kitô “trao vương
quyền lại cho Thiên Chúa Cha... và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn
loài” (1Cr 15,24.28). Những người kitô hữu biết rõ rằng, sự đổi mới mà chúng ta
đang mong đợi trong sự viên mãn của nó khi Chúa trở lại, đang hiện diện kể từ
khi tạo dựng thế giới, và đúng hơn, từ khi Thiên Chúa làm người nơi Đức Giêsu
Kitô, và với Người, nhờ Người Thiên Chúa đã thực hiện một “cuộc sáng tạo mới”
(2Cr 5,17; Gl 6,15).
Trước khi kết thúc, một lần nữa, tôi xin tạ ơn Thiên Chúa toàn
năng đã ban cho Giáo hội ánh sáng và sức mạnh cần thiết để đồng hành với con
người trên bước đường dương thế hướng về vận mạng vĩnh cửu của mình. Bước vào
thiên niên kỷ thứ ba, Giáo hội cũng sẽ tiếp tục trung thành lấy con đường của
loài người làm của mình, vì nhận thức rằng Giáo hội không thể đi một mình mà
cùng đi với Đức Kitô, Chúa của mình. Chính Người cũng đã đi qua con đường nhân
loại là hướng dẫn nhân loại, mặc dù nhân loại không ý thức điều đó.
Cầu xin Đức Maria, Mẹ Đấng cứu chuộc, Mẹ luôn ở gần Đức Kitô trên
bước đường Người đến với nhân loại, và đồng hành với nhân loại, Mẹ đã đi trước
Giáo hội trong cuộc lữ hành đức tin, xin Mẹ đồng hành với nhân loại bằng sự can
thiệp đầy tình mẫu tử hướng về thiên niên kỷ tới, trong sự trung thành với Đấng
“hôm qua cũng như hôm nay” và “như vậy mãi đến muôn đời” (x. Dt 13,8). Người là
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhân Danh Người với tất cả tấm lòng rộng mở, tôi
ban phép lành cho mọi người.
Làm tại Rôma, gần đền Thánh Phêrô, ngày 01.5.1991 ngày lễ Thánh
Giuse Lao Động, năm thứ mười ba triều đại giáo hoàng của tôi.
Gioan Phaolô II
Chú thích
[1] Lêo XIII, Thông điệp Tân
Sự 15.5.1891. Nguyên văn thông điệp này k có số đoạn, bản dịch Pháp văn dựa
theo cách đánh số trong tập “Le Discours Social de l'Eglise Catholique”, do
CERAS thực hiện trong bộ “L'Eglise et Société” (Le Centurion) Paris 1985/1990.
Bản dịch các đoạn trích dẫn cũng dựa theo nhà xuất bản này, nhưng có một vài
thay đổi.
[2] x. Piô XI, thông điệp
Quadragesimo anno 15.5.1931; Piô XII, sứ điệp Truyền thanh 01.6.1941; Gioan
XXIII; thông điệp Mẹ và Thày 15.5.1961; Phaolo VI, tông thư Tám mươi năm
14.5.1971
[7] x. Chẳng hạn Lêo XIII, TĐ
Arcanum Divinae sapientiae 10.2.1880; TĐ Diutunum, illud 29.6.1881; TĐ Libertas
praestantissimum 20.6.1888; TĐ Graves de communi 18.1.1901
[30] x. Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền: Tuyên ngôn về việc loại trừ mọi hình thức không khoan nhượng
(intolerance)
[31] x. Vat.II TD; Gioan
Phaolo II, thư gửi các nguyên thủ quốc gia 01.7.1980; Sứ điệp ngày thế giới hòa
bình 1988
[35] x. RN, 20-21; QA.III;
Phaolo VI, Bài giảng Bế mạc Năm Thánh 25.12.1975; Sứ điệp ngày thế giới hòa
bình 1977
[44] x. LE, 20; Diễn từ tại tổ
chức lao động quốc tế (OIT) ở Genève, 15.6.1982; Phaolô, diễn từ tại tổ chức
trên 10.6.1969
[47] x. Tđ Arcanum divinae
sapientiae 10.2.1880; Tđ Diuturnum illud 29.6.1881; Tđ Immortale Dei
1..11.1885; Tđ Sapientiae christianae 10.1.1890; Tđ Quod apostolici muneris
28.12.1878; Tđ Libertas praestantissimum 20.6.1888
[52] x. Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền 1948; PT, IV; Buổi họp kết thúc hội nghị về an ninh và hợp tác tại
Châu Âu (CSCE) Helsinki 1975.
[59] x. Diễn từ tại hội nghi
hội đồng kinh tế Tây Phi (CEAO) nhân dịp 10 năm “Appel pour le Sahel”
(Ouagadougou, Burkina - Faso 29.10.1990
[63] x. Văn kiện bế mạc Hội
nghị Helsinki và hiệp ước Vienne Lêo XIII, thông điệp Libertas
praaestantissimum, 5.
[104] x. Benedicto XV, tông
huấn Ubi primum 08.9.1914; Piô XI, sứ điệp truyền thanh 29.9.1938; Piô XII, Sứ
điệp truyền thanh 24.8.1939; Gioan 23, PT, III; Phaolô VI, Diễn văn tại Liên
hiệp quốc 04.10.1965.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét