Trang

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

III. Phẩm giá của lao động


      
Đây là đoạn quan trọng nhất xét về đạo lý. Lao động được phân tích dưới nhiều khía cạnh: chủ thể và khách thể; xã hội; nghĩa vụ.
      A. Chiều kích chủ thể và khách thể của lao động3
      Vì là một nhân vị mà con người là chủ thể lao động (số 270).
            1. Ý nghĩa khách thể của lao động. Đó là toàn thể những hoạt động, tài nguyên, dụng cụ và kỹ thuật mà con người sử dụng để sản xuất. Đây là khía cạnh hay thay đổi của hoạt động con người.
            2. Ý nghĩa chủ thể của lao động. Lao động xét như là hành động của con người, một nhân vị, nghĩa là chủ thể có lý trí và ý chí. Đây là khía cạnh bền vững, nó không tuỳ thuộc vào loại công tác hoặc kết quả do mình làm ra.
            3. Chiều kích chủ thể mang lại phẩm giá cho lao động (số 271). Không được phép đối xử con người như một món hàng. Con người là tiêu chuẩn đo lường phẩm giá lao động. Vì thế những điều sau đây làm mất đi bản tính của lao động:
      - Người công nhân bị coi như một lực lượng sản xuất dựa theo cái nhìn duy vật và kinh tế.
      - Đặt chiều kích khách thể lên trên chiều kích chủ thể: lao động và kỹ thuật được coi là quan trọng hơn chính con người.
            4. Mục tiêu của lao động bao giờ cũng là con người, chứ không phải là đối tượng khách thể của việc làm (số 272). Lao động là vì con người, chứ không phải là con người vì lao động.
            5. Lao động của con người tự nó bao hàm một chiều kích xã hội (số 273). Làm việc là làm việc với người khác và cho người khác. Những kết quả của lao động cũng là cơ hội của những sự trao đổi, những mối tương quan, những cuộc gặp gỡ.
      - Điều kiện để cho hoạt động của con người mang lại thành quả dồi dào: xã hội được tổ chức thành những đoàn thể; hệ thống xã hội và pháp lý biết bảo vệ lao động; tình liên đới nghề nghiệp; sự kết hợp giữa trí tuệ, tư bản, lao động.
      - Để đánh giá đúng mức việc làm và trả lương cân xứng, cần phải xét đến khía cạnh vừa cá nhân vừa xã hội của lao động.
            6. Làm việc cũng là một bổn phận của con người (số 274). Đây là một đòi hỏi của Đấng Tạo hoá cũng như yêu sách của sự phát triển nhân cách. Làm việc là một nghĩa vụ đối với tha nhân: gia đình, xã hội, quốc gia. Chúng ta là những người thừa kế của công lao của các thế hệ trước ta, và là những kẻ kiến tạo tương lai cho những người đến sau ta.
            7. Lao động xác nhận căn cước thâm thúy của con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (số 275). Con người được làm chủ thế giới hữu hình theo kế hoạch nguyên thuỷ của Đấng Tạo Hóa. Con người không phải là chủ nhân của vũ trụ, nhưng chỉ là quản lý, được mời gọi phản ánh Đấng Tạo hoá nơi việc làm của mình.
      B. Tương quan giữa lao động và tư bản
            1. Vì mang tính cách nhân vị nên chi lao động đứng trên tất cả những thành tố sản xuất khác (số 276). Do khía cạnh chủ thể, lao động đứng trên tư bản vật chất: các phương tiện sản xuất, nguồn tài chính, các hoạt động thị trường chứng khoán, vv.
            2. Lao động tự bản chất đi trước tư bản; đôi bên bổ túc cho nhau (số 277). Lao động đi trước, bởi vì là nguyên nhân tác thành; tư bản chỉ là nguyên nhân dụng cụ. Bổ túc, bởi vì cả hai đều liên hệ mật thiết trong tiến trình sản xuất. “Không thể có tư bản mà không có lao động, cũng như không thể có lao động mà không có tư bản” (Thông điệp Rerum novarum). Vì thế sẽ là sai lầm nếu cho rằng chỉ có tư bản hoặc chỉ có lao động là nguyên nhân độc nhất của những gì đã được sản xuất.
            3. Khi bàn về tương quan giữa lao động và tư bản, cần nhớ rằng con người chính là “nguyên liệu chính yếu”, và “yếu tố quyết định” nằm ở trong tay con người (số 278). “Sự phát triển toàn diện con người trong lao động sẽ làm tăng gia chứ không đi ngược với nhịp độ sản xuất và hiệu năng của chính lao động” (Thông điệp CA số 43). Ngày nay, chiều kích chủ thể có khuynh hướng mang tính quyết định và quan trọng hơn là chiều kích khách thể. (Điều này khác với quá khứ, khi mà con người bị đối xử như một cái máy).
            4. Tương quan giữa lao động và tư bản thường mang những dấu tích của xung đột (số 279). Trước đây, các doanh nhân, do nguyên tắc lợi nhuận, tìm cách giữ đồng lương ở mức thấp nhất có thể. Ngày nay, trong khung cảnh của tiến bộ kỹ thuật và toàn cầu hóa, những người thợ có nguy cơ bị khai thác bởi những bộ máy kinh tế và thi đua sản xuất.
            5. Tiến trình vượt qua sự lệ thuộc của lao động vào vật chất tự nó không đủ khả năng để vượt qua sự tha hóa về nơi làm việc và ngay cả về lao động (số 280). Lao động xâm nhập vào những chiều kích khác cũng cần thiết cho con người: đời sống gia đình.
      C. Lao động, cứ điểm cho sự tham gia
            Sự tham gia của các công nhân vào sở hữu, sự quản trị và những hoa trái của sở hữu (số 281). Các công nhân cần được nhìn nhận như là đồng sở-hữu-chủ của xí nghiệp: như vậy là kết hợp lao động với việc sở hữu tư bản. Nên nghĩ ra việc thiết lập những cơ cấu nhằm mục tiêu kinh tế, xã hội và văn hóa (LE số 14).
      D. Tương quan giữa lao động và tư hữu
            1. Tư hữu được thủ đắc nhờ lao động, vì thế cần phải phụng sự lao động (số 282). Điều này cần được áp dụng cách riêng đối với việc chiếm hữu các phương tiện sản xuất, cũng như các tài sản thuộc thế giới tài chính, kỹ thuật, trí tuệ, nhân sự. Các phương tiện sản xuất không thể được chiếm hữu để chống lại lao động, cũng như không thể được chiếm hữu nguyên chỉ để chiếm hữu (LE số 14). Quyền tư hữu phải tuỳ thuộc nguyên tắc về các tài nguyên được dành cho tất cả mọi người; cũng vậy, quyền tư hữu không được ngăn cản lao động và sự phát triển của tha nhân. Nếu làm ngược lại thì quyền tư hữu trở thành bất hợp pháp, chẳng hạn như khi tư hữu làm ngăn trở lao động của tha nhân, bóc lột, phá vỡ tình liên đới trong giới lao động, vv.
            2. Tư hữu tư và công cần được sắp xếp nhắm đến một nền kinh tế phục vụ con nguời (số 283). Các kiến thức và kỹ thuật mới cũng được dành cho toàn thể nhân loại, cũng giống như việc sở hữu đất đai và tư bản. Sự tập trung kiến thức và kỹ thuật vào những quốc gia tiến bộ và vào tay một thiểu số nắm quyền có nguy cơ đưa đến nạn thất nghiệp và khơi rộng hố ngăn cách giữa những người giàu và người nghèo.
      E. Việc nghỉ ngơi các ngày lễ (số 284)
            1. “Vào ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi sau tất cả những gì đã làm” (St 2,2). Vào ngày chúa nhật và lễ buộc, các tín hữu hãy ngưng những công tác hoặc hoạt động nào làm ngăn cản sự thờ phượng Thiên Chúa, niềm vui riêng của Ngày Của Chúa, thi hành các công tác từ thiện, thư dãn tinh thần và thể xác (GLHTCG số 2185).
            2. Chúa nhật là một ngày cần được thánh hóa bằng đức ái thực hành (số 285): quan tâm đến các phần tử trong gia đình; thăm viếng những người bệnh tật, già lão. Dành thời giờ thích hợp để suy tư, thinh lặng, học hỏi những điều giúp thăng tiến đời sống nội tâm và đạo đức. Chúa nhật là ngày giải thoát, tiên báo niềm vui trên trời (xc. Dt 12,22-23).
            3. Chính quyền phải để ý lo liệu sao cho các công dân không bị tước mất thời gian dành cho việc nghỉ ngơi và phụng tự, dưới danh nghĩa là tăng gia sản xuất kinh tế (số 286). Các Kitô hữu phải đòi hỏi để pháp luật nhìn nhận những chúa nhật và ngày lễ trọng như là ngày nghỉ việc


3 Về nguồn gốc của sự phân biệt này, xin xem Mục 2.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét