Trang

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

II. Cách lập luận


     
 Nên phân biệt hai bình diện trong giáo huấn về hôn nhân: bình diện “tự nhiên” dựa theo lý luận của lý trí, và có thể áp dụng cho tất cả các hôn nhân; bình diện “siêu nhiên” dựa trên mạc khải, có giá trị cho các đôi hôn nhân Kitô giáo, được thánh hóa bằng một bí tích.
       Sự khác biệt về lối tiếp cận cũng đưa đến sự khác biệt trong ngôn ngữ thần học.
       1/ Bản tính hôn nhân
       Trước đây, các sách luân lý hôn nhân thường dựa trên luận cứ của “luật Chúa truyền”. Ngày nay khi muốn thuyết phục những tín đồ thuộc tôn giáo khác hoặc những người không tin, Giáo hội xử dụng các lý luận dựa trên bản tính con người.
       - Con người có lý trí và tự do. Vì thế chuyện vợ chồng và sinh đẻ cần được điều khiển bằng lý trí và tự do, chứ không chiều theo bản năng như thú vật.
       - Tình yêu đòi hỏi sự trao hiến toàn diện. Yêu ai thì muốn trao thân gửi phận cho người yêu trót đời. Tình yêu mang tính độc hữu và vĩnh viễn. Không ai muốn yêu “tạm thời”, hoặc “chia sẻ”. Vì thế tình yêu đòi hỏi dây hôn nhân độc nhất và bất khả ly.
       2/ Con cái
       Một cách tương tự như vậy, việc sinh con đẻ cái không chỉ tuân theo định luật bảo tồn chủng loại như ở nơi động vật, nhưng cần được hướng dẫn bởi lý trí và tự do (tình yêu).
       - Bà mẹ không phải cái máy đẻ. Con cái là kết quả của tình yêu: chúng cần được đón nhận bằng tình yêu. Đối lại,  con cái có quyền được ra đời trong bầu khí yêu thương của cha mẹ. Điều này chống lại việc thụ thai trong ống nghiệm.
       - Ngoài việc sinh sản, cha mẹ còn có nghĩa vụ giáo dục con cái. Việc giáo dục đòi hỏi tình yêu. Đối lại, con cái có quyền đòi hỏi cha mẹ phải yêu nhau (chứ không cãi lộn hoặc ly dị). Sự bền vững của hôn nhân ảnh hưởng đến sự trưởng thành tâm lý của đứa trẻ. Một cách tương tự như vậy, việc giáo dục đòi hỏi sự bổ túc giữa một yếu tố nam (cha) và yếu tố nữ (mẹ): sự mất quân bình sẽ gây ra những lệch lạc trong định hướng phái tính của đứa trẻ.
       3/ Ngừa thai
       Từ hai điểm vừa rồi (Bản tính tình yêu vợ chồng, việc sinh con đẻ cái), chúng ta có thể hiểu được vì sao Giáo hội chấp nhận phương pháp ngừa thai “tự nhiên”
       - Bởi vì không cần vận dụng cái gì giả tạo (thuốc viên, vòng xoắn, vv) gây thiệt hại có sức khoẻ.
       - Bởi vì nó tôn trọng phẩm giá của nhau: người chồng biết tôn trọng những “đòi hỏi” của người vợ, chứ không áp đặt ý muốn riêng của mình. Quan hệ vợ chồng trở thành cuộc gặp gỡ giữa hai “chủ thể”, chứ không phải chỉ để thoả mãn nhu cầu sinh lý. Như vậy đôi bên có cơ hội để thực hành đức yêu thương và tiết độ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét