Ai ai cũng
phải “làm việc”; nhưng “làm việc” có phải là “lao động” không? Nếu xét theo tầm
nguyên Hán Việt, thì phải nói rằng “làm việc” khác với “lao động”. Lao động:
lao là mệt nhọc, cực khổ (động: không ở yên). Lao công: người làm
việc nặng nhọc (công: người làm việc)4. Như vậy, theo nguyên
ngữ, lao động phải là làm việc mệt nhọc vất vả. Do đó, chúng ta có thể nói rằng
“Thiên Chúa làm việc, hoạt động”, chứ không thể nói rằng Thiên Chúa “lao động”;
điều này chỉ có thể áp dụng cho Đức Giêsu ở Nazareth. Nhưng đó là nói về từ ngữ
trong tiếng Việt. Tiếng Anh (to work, working, worker) và tiếng Pháp (travailler,
travail, travailleur) không có vấn đề này.
B. Định nghĩa
Từ xa xưa, các
triết gia đã định nghĩa con người như là “hữu thể có lý trí”: con người khác
động vật ở chỗ nó trí khôn: homo sapiens. Ông Karl Marx đã mở thêm một
chiều hướng mới khi ông định nghĩa con người dựa theo tiêu chuẩn lao động: con
người là homo faber; nhờ lao động mà con người giải quyết được các nhu
cầu của mình. Con người khác loài động vật bởi vì biết chế tạo dụng cụ làm việc
và sản xuất những đồ tiêu dùng. Lao động là một đặc trưng của con người, cũng ngang
hàng với ngôn ngữ, văn chương, nghệ thuật, tôn giáo. Nhận xét này cũng đúng
thôi, bởi vì lao động không chỉ là vận động các bắp thịt mà thôi, nhưng còn đòi
hỏi vận dụng lý trí để biến đổi cái thô sơ nơi thiên nhiên sang cái gì hữu ích
cho cuộc sống. Lao động là nền tảng cho sinh hoạt kinh tế, văn hóa của nhân
loại. Mặt khác, lao động mang nhiều hình dạng, và cũng trở nên cơ sở để phân
định sự tiến triển của các nền văn minh, từ chỗ thâu lượm đến chỗ cày bới, từ
canh nông sang kĩ thuật, từ cơ xưởng đến dịch vụ.
Nói chung, ai
cũng biết thế nào là lao động, nhưng đến khi muốn định nghĩa Lao động là gì?
thì chúng ta sẽ cảm thấy lúng túng. Thật vậy, định nghĩa lao động không chỉ
giới hạn vào phạm vi triết học nhưng còn mang theo nhiều hệ luận về chính trị,
pháp lý, kinh tế nữa. Chỉ cần trưng dẫn vài thí dụ để hiểu tính cách phức tạp
của vấn đề. Thí dụ thứ nhất lấy từ trường học. Ai ai cũng nhìn nhận rằng việc
học tập là lao động tinh thần (chứ không phải là lao động chân tay); nhưng thử
hỏi: ai là người lao động, học sinh hay thầy giáo? Dựa theo tiêu chuẩn nào để
xác định? Nếu dựa theo tiêu chuẩn vất vả nặng nhọc, thì các học sinh cảm thấy
việc học nặng nề hơn (họ miễn cưỡng đi vào lớp, tuy có lẽ họ thích đi làm
chuyện khác); đang khi đó thầy giáo thao thao bất tuyệt, coi việc dạy học là
điều hứng thú. Trên thực tế, luật pháp nhìn nhận công tác của thầy giáo là lao
động vì thế được trả lương, còn các học sinh không những không được trả lương
mà còn phải đóng tiền để trả lương cho thầy nữa. Một thí dụ khác lấy từ đời
sống gia đình. Bà Bắc ngày ngày nấu cơm cho gia đình thì không phải là lao
động; nhưng nếu bà đi làm thuê trong một tiệm cơm, hoặc bà đứng mở tiệm cơm thì
mới gọi là lao động. Ông Nam có chiếc xe hơi: ông có thể dùng xe để chở con đi
học và chở vợ đi chợ; nhưng đó không phải là lao động; nhưng nếu ông dùng xe đó
chở khách thì được coi như lao động. Đâu là tiêu chuẩn để xác định bản chất lao
động? Một điều chắc chắn là ông Nam chỉ có thể đòi tiền khách hàng, chứ không
đời nào lại đòi tiền vợ con mình, cho dù đôi khi phải phục vụ lâu giờ hơn!
Từ những thí
dụ vừa trưng dẫn, ta có thể thấy vấn đề định nghĩa lao động không đơn giản.
Tuy cùng là một công tác là học hành, nhưng công việc của thầy giáo được coi là
lao động, còn công việc của học trò thì không phải là lao động. Nhưng đó là
nhìn dưới khía cạnh pháp lý và tài chính mà thôi (hợp đồng lao động), chứ xét
về bản chất thì việc học hành của các học sinh cũng là lao động, không những
chỉ vì nó nặng nhọc nhưng nhất là vì nó giúp phát triển con người nữa.
Trải qua dòng
lịch sử, đã có nhiều định nghĩa về lao động, và những định nghĩa này bị chi
phối bởi những quan niệm về giá trị của lao động (công tác nặng nhọc của người
nô lệ hay cơ hội phát triển tài năng) cũng như về chính bản chất của lao động
(lao động chân tay hay lao động trí tuệ). Nhiều yếu tố đã được đưa ra để xác
định bản chất của lao động; có lẽ không một yếu tố nào mang tính cách phổ quát
áp dụng cho tất cả mọi hình thức lao động; nhưng nếu gom lại nhiều yếu tố thì
chúng ta có thể đưa ra một khái niệm bao quát về lao động, đó là:
a) Ý định muốn
thực hiện một điều gì đó ở bên ngoài của ta (khác với những tư tưởng ước muốn
chỉ diễn ra trong đầu óc);
b) Vận dụng cơ
thể và nghị lực, hoặc trực tiếp với tay chân, hoặc với việc sử dụng các dụng
cụ;
c) Sự cố gắng
(khác với giải trí) và kiên trì.
C. Phân loại
lao động
Có nhiều tiêu
chuẩn để phân chia lao động
1/ Dưới khía
cạnh chủ quan: lao động “nô lệ” (phải dùng sức lực tay chân) và lao động
“tự do” (chú trọng về trí tuệ). Đây là sự phân chia dựa theo chế độ xã
hội thời xưa, gồm những người nô lệ và tự do5. Ngày này ta có thể
thay thế bằng các từ lao động “cưỡng
bách” và lao động “tình nguyện”.
2/ Dưới khía
cạnh khách quan, dựa theo công cụ: lao động “chân tay” (không có dụng cụ), lao
động “thủ công” (dùng dụng cụ, như vẫn đòi hỏi sáng kiến cá nhân), lao động
“công nghệ” (sử dụng cơ khí).
3/ Dưới khía
cạnh sản phẩm: lao động kinh tế (sản xuất đồ tiêu dụng) và lao động văn hoá
(nhằm phát triển các giá trị tinh thần).
4/ Dựa trên
lịch sử hệ thống sản xuất, các nhà kinh tế học phân biệt các hình thức: nông
nghiệp và chăn nuôi, công nghiệp và dịch vụ, vv
5/ Trong lãnh
vực triết học, khi bàn về lao động, Học thuyết Xã hội của Giáo hội nhấn mạnh
đến sự phân biệt giữa khía cạnh “chủ thể” và khía cạnh “khách thể”. Khía cạnh
chủ thể là chính con người lao động, bởi vì duy chỉ có con người mới
biết lao động (động vật và máy móc không biết đến lao động). Khía cạnh khách
thể là những tài sản, cơ sở, dụng cụ, phương tiện, ... sử
dụng vào sự làm việc hoặc là kết quả của nó6. Trong hệ trật các giá
trị, cần phải đặt lao động chủ thể lên trên lao động khách thể, tài năng của
con người đứng trên công cụ vật chất; con người chế ra công cụ chứ không phải
ngược lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét