Như đã nói
trên đây, đã có một sự tiến triển trong các văn kiện của Giáo hội bàn về lao
động.
1. Trong thông
điệp Rerum Novarum (1891), đức Lêo XIII nói tới điều kiện của người thợ
trong xã hội kỹ nghệ Âu châu cuối thế kỷ XIX, phải chịu lắm cảnh bất công.
Thông điệp nhấn mạnh rằng không thể coi lao động như một món hàng có thể đánh
giá theo luật cung cầu; lao động gắn liền với con người, vì nó bộc lộ tài năng
và kiện toàn con người. Lao động cần thiết cho con người cũng như cho gia đình,
vì thế lương bổng cần phải để ý tới các yếu tố đó.
2. Bốn mươi
năm sau, tình trạng của người công nhân không mấy tiến bộ hơn. Đức Piô XI phải
lên tiếng lần nữa để bàn về những tiêu chuẩn xác định lương bổng công bằng.
Thông điệp Quadragesimo Anno (1931) cũng xét lao động trong tương quan
với quyền tư hữu, tư bản, trật tự xã hội.
3. Với thông
điệp Mater et Magistra (1961), đức Gioan XXIII tiến thêm một bước khi
bàn tới việc các công nhân được tham gia vào việc điều hành xí nghiệp, nhờ đó
xí nghiệp ngày càng có tính cách nhân bản hơn vì sẽ biến thành một cộng đồng
với những chức phận khác nhau. Ngài cũng nhấn mạnh rằng giá trị cao quý của con
người nằm ở chỗ tài nghệ, làm chủ được nghề nghiệp của mình, chứ không phải ở
chỗ tài sản mà mình sở hữu.
4. Công đồng
Vaticanô II, trong hiến chế “Vui Mừng và Hy vọng” số 33-39 (1965), mở
rộng quan điểm lao động đến toàn thể những hoạt động của con người trong thế
giới, và như vậy không chỉ giới hạn trong những xí nghiệp kỹ nghệ. Hai năm sau
(1967), đức Phaolô VI, trong thông điệp Populorum Progressio (số 27-28),
cũng đả động tới lao động hiểu theo nghĩa rộng ấy, và tố cáo nguy cơ là con
người có thể trở thành nô lệ cho lao động thay vì làm chủ nó.
5. Với thông
điệp Laborem exercens (1981), đức Gioan Phaolo II muốn tổng hợp và đào
sâu tất cả giáo huấn của Giáo hội về lao động. Cách riêng, Ngài nhấn mạnh đến
một vài nấc thang giá trị cần phải tôn trọng, tỉ như: con người có giá trị hơn
là lao động (số 6); nhân vị có giá trị hơn là sự vật, và lao động có giá trị
hơn là tư bản (12), mục tiêu phổ quát của tài sản thì đứng trên quyền chiếm hữu
chúng (14), phẩm giá con người ở trên của cải (20).
Khía cạnh liên
đới được dành một chỗ đặc biệt trong thông điệp Sollicitudo rei socialis
(1987).
Sau cùng,
thông điệp Centesimus Annus (1991) tổng kết giáo huấn trong một thế kỷ,
nêu bật sự tiến triển dọc theo những biến chuyển xã hội (số 32). Trước đây, yếu
tố quan trọng của sự sản xuất là đất đai, kế đó là tư bản, nhưng ngày nay yếu
tố tất định chính là con người, nhờ tài năng tổ chức của mình. Ngoài ra, trước
đây người ta đặt nặng quyền sở hữu tài sản vật chất, nhưng ngày nay còn có thứ
tài sản khác quan trọng hơn nhiều, đó là kiến thức khoa học, kỹ thuật nghĩa là
chính khả năng của con người chứ không phải là nguồn lợi vật chất. Chính vì
thế, cần phải chú trọng đến con người như chủ thể của hoạt động kinh tế.
B. Vài nguyên tắc
của GHXH về lao động
1. Khái niệm lao động
Lao động là gì ? Đã có nhiều triết gia hay
luật gia cố gắng tìm cách định nghĩa nó. Có người chỉ coi công việc chân tay
nặng nhọc mới là lao động; có người cho rằng chỉ có người đi làm công cho người
khác mới là lao động; có người chỉ coi là lao động khi sản xuất được cái gì hữu
ích. Các văn kiện xã hội của Giáo hội không tìm cách định nghĩa lao động theo
tiêu chuẩn triết lý hay pháp luật, nhưng hiểu lao động theo nghĩa rất rộng bao
gồm tất cả các hoạt động của con người: lao động chân tay cũng như lao
động trí óc (thí dụ: thảo kế hoạch, điều hành: LE 14), từ những nông dân, thợ
mỏ thợ nề cho đến các nhà khoa học, bác sĩ, y tá và không quên các bà nội trợ
(LE 9). Nhưng nhất là các văn kiện vạch ra giá trị của lao động cũng như
những yêu sách của nó:
a) Lao động
kiện toàn con người, vì nhờ lao động mà con người phát triển tài năng của mình
(LE 9d;20).
b) Lao động
cấp dưỡng cho gia đình (LE 10 a.b). -
c) Lao động
xây dựng xã hội (LE 8;10c; CA 31;32).
d) Lao động chinh phục vũ trụ, ghi dấu bàn
tay con người trên vũ trụ (LE 4; CA 31).
2/ Khía
cạnh chủ thể và khách thể
Tưởng cũng nên
biết là đức Gioan Phaolô II (một vị Giáo hoàng đầu tiên đã có kinh nghiệm trực
tiếp với xã hội chủ nghĩa) đã dám đối chiếu quan niệm về lao động của Kitô giáo
với quan niệm của Marx. Marx nói tới ba khía cạnh của lao động : a) khía cạnh
chủ thể, xét như là hoạt động của con người; b) khía cạnh khách thể, nghĩa là
đối thể hoạt động; c) khía cạnh công cụ, nghĩa là phương tiện dùng để hoạt
động. Trong thông điệp LE, đức Gioan Phaolô II chỉ phân biệt có hai khía cạnh:
chủ thể và khách thể; khía cạnh thứ ba của Marx được gộp vào trong khía cạnh
khách thể.
a) Lao động
nhìn dưới khía cạnh chủ thể (LE 6) là chính con người, chủ
thể của lao động. Chỉ có con người, chủ thể tự do, mới biết làm việc; chứ động
vật hay máy móc không biết làm việc.
b) Lao động
dưới khía cạnh khách thể là những
tài sản, cơ sở, dụng cụ, phương tiện, công cuộc ... dùng vào sự làm việc hoặc
là kết quả của nó (LE 5). Trong hệ trật các giá trị, cần phải xếp lao động chủ
thể lên trên lao động khách thể (LE 6.7.8.9.10.13.18.24...), tài năng của con
người đứng trên công cụ vật chất; con người chế ra công cụ chứ không phải ngược
lại.
Nguồn gốc xa
xưa của sự phân biệt này là triết học Hy-lạp: sự phân biệt giữa “hành vi” (praxis,
agere, agir) và “hoạt động” (poiesis,
facere, faire). “Hành vi” nhằm kiện toàn con người (thí dụ: hành vi nhân
đức, hành vi luân lý), ở bên trong con người chúng ta; “hành động” tác dụng
trên vật thể bên ngoài chúng ta.
Việc du nhập
sự phân biệt này nhằm đề cao phẩm giá con người: con người làm việc để kiện
toàn chính bản thân, trước khi nói đến thay đổi vũ trụ bên ngoài. Lao động phục
vụ con người, chứ không phải con người phục vụ lao động. Lao động cần phải được
nhân bản hoá.
3/ Ngoài
ra cũng cần nên thêm linh đạo về lao động. Lao động là một phương thế
cộng tác với Đấng Tạo hóa (LE 25). Lao động là một phương thế họa lại cuộc đời
lao công của đức Kitô (LE 26), cách riêng qua việc hy sinh đau khổ để cứu độ
(LE 27). Lao động là phương thế cộng tác với Chúa Thánh Thần trong công tác
thánh hóa và canh tân vũ trụ (GS 39; LE 27).
C. Quyền lợi
và bổn phận làm việc
Như đã nói
trên, các sách luân lý cổ truyền nói đến bổn phận làm việc (ai không làm
việc thì đừng ăn; tay làm hàm nhai); nhưng với sự tiến triển của các cơ chế xã
hội, người ta ý thức quyền làm việc như là một quyền lợi căn bản của con người.
1/ Quyền
làm việc. Ngày nay hầu hết các bản Hiến pháp và Tuyên ngôn quốc tế đều nhìn
nhận quyền làm việc. Đây là một quyền lợi mới được nhìn nhận trong thế kỷ XX
khi nạn thất nghiệp bành trướng trong các nước kỹ nghệ. Các văn kiện của Giáo
hội đòi hỏi quyền này kể từ năm 1941 (sứ điệp của đức Piô XII kỷ niệm 50 năm
thông điệp RN; tiếp đến là PT 18, OA 14). Tuy nhiên, trên thực tế, trong các
nền pháp chế hiện hành có ba lối giải thích quyền làm việc.
a) Theo hiến
pháp Liên sô 1977 dưới chế độ Lênin, quyền làm việc được hiểu như quyền được
Quốc gia bảm đảm cho một chỗ làm việc; do đó người công nhân không thể bị sa
thải dù từng cá nhân hay là cả tập thể. Ngày nay ít ai hiểu quyền làm việc theo
nghĩa này, bởi vì nó sẽ tiêu diệt sáng kiến cá nhân cũng như khiến các cơ cấu
kinh tế trở thành cứng nhắc.
b) Một số nước Tây phương hiểu quyền làm việc là
quyền được hưởng một mức lương tối thiểu để sinh sống nhờ công việc làm. Nhà
nước sẽ đứng ra bảo đảm cho các công nhân mức lương ấy.
c) Trước nạn
thất nghiệp càng ngày càng lan rộng, nhiều quốc gia nhấn mạnh đến phương tiện
sinh sống. Theo đó, dù người công nhân kiếm được việc làm hay không, họ cũng
cần có tiền để sống. Nhà nước phải liệu cấp dưỡng món tiền tối thiểu ấy.
Dù giải thích
thế nào về quyền làm việc dưới khía cạnh pháp lý đi nữa, quyền làm việc còn
mang theo một chuỗi những quyền lợi khác được thông điệp LE quảng diễn ở các số
16-23: quyền được đồng lương tương xứng (GS 67; LE 19), quyền được làm việc
trong điều kiện xứng với nhân phẩm (LE 15; CA 35;39;41; thí dụ: ngoài việc bảo
đảm khung cảnh vệ sinh, cần làm sao để con người cảm thấy làm việc có ý thức
chứ không như cái máy); quyền được tham gia vào việc quản trị xí nghiệp (MM 91;
GS 68; LE 14); quyền lập nghiệp đoàn (LE 20; CA 15), quyền di cư. Ngoài ra
quyền làm việc cũng cần phải nhìn nhận cho các bà nội trợ, các người tàn tật.
Tại những nước
Âu châu, vấn đề nghiệp đoàn cũng kéo theo vấn đề đình công, sự tham gia của các
người Kitô giáo vào những nghiệp đoàn với những màu sắc chính trị khác nhau.
Quyền làm việc thường cũng đi đôi với quyền nghỉ ngơi, quyền cấp dưỡng an ninh
xã hội, hưu bổng.
2/ Bổn
phận làm việc là một điều được các văn kiện xã hội nói tới ngay từ đầu (LE
16b), dựa theo Kinh thánh (xc. 1Tx 4,10-11; Ep 4,27-28) và truyền thống Giáo
hội. Sự làm việc là một phương tiện để kiếm ăn nuôi sống cho mình và cho gia
đình, phát triển các tài năng của mình, tránh cảnh nhàn cư, đóng góp vào việc
kiến thiết xã hội. Tuy nhiên, khi diễn đạt ra pháp lý, người ta thấy luật pháp
của các quốc gia lúng túng khi muốn chế tài nghĩa vụ làm việc. Chỉ có các nước
độc tài mới dám đề ra sự lao động cưỡng bách.
Nên biết là
nghĩa vụ làm việc thì khác với nghĩa vụ của công
nhân. Nghĩa vụ của công nhân phát sinh từ hợp đồng mà người thợ đã ký kết
với cá nhân hay xí nghiệp. Từ hợp đồng đó nảy ra những quyền lợi và nghĩa vụ
luân lý và pháp lý mà đôi bên phải thi hành theo như đã cam kết.
D. Những vấn
đề nối kết với lao động
Giáo huấn xã
hội móc nối lao động với nhiều vấn đề khác, được sách TLHT đem vào chương này,
tuy vẫn còn trở lại trong những chương kế tiếp.
1/ Trước hết,
quyền lao động được gắn với quyền lợi của người lao động (công nhân).
Trong số những quyền lợi căn bản nhất là quyền được trả lương xứng đáng: tiền
lương không chỉ dựa trên kết quả sản xuất, và còn liên quan đến mức sống của cá
nhân và gia đình. (Lao động và nhân quyền)
2/ Trong quá
khứ cũng như trong hiện tại, lao động được đặt trong tương quan với tư bản:
không những là tư bản của người chủ thuê mướn nhân công, mà còn ngay với chính
tư bản của chính công nhân. Lao động là một phương tiện để thủ đắc tư bản và
những phương tiện sinh sống.
3/ Ngoài ra,
lao động cũng đặt lên vấn đề đối với Nhà Nước.
Tóm lại, trong
vấn đề lao động, chúng ta lại thấy xuất hiện những nguyên tắc căn bản của GHXH:
phẩm giá con người, quyền lợi căn bản, nguyên tắc liên đới, nguyên tắc hỗ trợ.
Kết luận. Những vấn đề mới
1. Sách TLHT
không chỉ dừng lại ở chỗ thâu tóm giáo huấn của quá khứ, nhưng cũng gợi lên
những vấn đề mới (res novae, tựa đề của thông điệp đức Lêô XIII), hướng
đến tương lai: hiện tượng toàn cầu hoá, với những hậu quả đối với các công nhân
ở những nước kỹ nghệ cũng như ở những nước đang phát triển.
2. Chiều kích
tâm linh của lao động. Chúng ta đã lướt qua linh đạo của lao động, nhưng chiều kích tâm linh còn rộng hơn nữa:
nó muốn nói đến việc đánh giá các nhu cầu của con người (không phải chỉ có nhu
cầu vật chất), và hướng đến chiều hướng siêu việt. Điều này có giá trị kể cả
cho những người ngoài Kitô giáo. Lao động có thể trở thành một đề tài đối thoại
liên tôn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét