Trang

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

III. Lao động và GHXH


A. Sự tiến triển của vấn đề lao động
      Như đã nói trên đây, đã có một sự tiến triển trong các văn kiện của Giáo hội bàn về lao động.
      1. Trong thông điệp Rerum Novarum (1891), đức Lêo XIII nói tới điều kiện của người thợ trong xã hội kỹ nghệ Âu châu cuối thế kỷ XIX, phải chịu lắm cảnh bất công. Thông điệp nhấn mạnh rằng không thể coi lao động như một món hàng có thể đánh giá theo luật cung cầu; lao động gắn liền với con người, vì nó bộc lộ tài năng và kiện toàn con người. Lao động cần thiết cho con người cũng như cho gia đình, vì thế lương bổng cần phải để ý tới các yếu tố đó.
      2. Bốn mươi năm sau, tình trạng của người công nhân không mấy tiến bộ hơn. Đức Piô XI phải lên tiếng lần nữa để bàn về những tiêu chuẩn xác định lương bổng công bằng. Thông điệp Quadragesimo Anno (1931) cũng xét lao động trong tương quan với quyền tư hữu, tư bản, trật tự xã hội.
      3. Với thông điệp Mater et Magistra (1961), đức Gioan XXIII tiến thêm một bước khi bàn tới việc các công nhân được tham gia vào việc điều hành xí nghiệp, nhờ đó xí nghiệp ngày càng có tính cách nhân bản hơn vì sẽ biến thành một cộng đồng với những chức phận khác nhau. Ngài cũng nhấn mạnh rằng giá trị cao quý của con người nằm ở chỗ tài nghệ, làm chủ được nghề nghiệp của mình, chứ không phải ở chỗ tài sản mà mình sở hữu.
      4. Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế “Vui Mừng và Hy vọng” số 33-39 (1965), mở rộng quan điểm lao động đến toàn thể những hoạt động của con người trong thế giới, và như vậy không chỉ giới hạn trong những xí nghiệp kỹ nghệ. Hai năm sau (1967), đức Phaolô VI, trong thông điệp Populorum Progressio (số 27-28), cũng đả động tới lao động hiểu theo nghĩa rộng ấy, và tố cáo nguy cơ là con người có thể trở thành nô lệ cho lao động thay vì làm chủ nó.
      5. Với thông điệp Laborem exercens (1981), đức Gioan Phaolo II muốn tổng hợp và đào sâu tất cả giáo huấn của Giáo hội về lao động. Cách riêng, Ngài nhấn mạnh đến một vài nấc thang giá trị cần phải tôn trọng, tỉ như: con người có giá trị hơn là lao động (số 6); nhân vị có giá trị hơn là sự vật, và lao động có giá trị hơn là tư bản (12), mục tiêu phổ quát của tài sản thì đứng trên quyền chiếm hữu chúng (14), phẩm giá con người ở trên của cải (20).
      Khía cạnh liên đới được dành một chỗ đặc biệt trong thông điệp Sollicitudo rei socialis (1987).
      Sau cùng, thông điệp Centesimus Annus (1991) tổng kết giáo huấn trong một thế kỷ, nêu bật sự tiến triển dọc theo những biến chuyển xã hội (số 32). Trước đây, yếu tố quan trọng của sự sản xuất là đất đai, kế đó là tư bản, nhưng ngày nay yếu tố tất định chính là con người, nhờ tài năng tổ chức của mình. Ngoài ra, trước đây người ta đặt nặng quyền sở hữu tài sản vật chất, nhưng ngày nay còn có thứ tài sản khác quan trọng hơn nhiều, đó là kiến thức khoa học, kỹ thuật nghĩa là chính khả năng của con người chứ không phải là nguồn lợi vật chất. Chính vì thế, cần phải chú trọng đến con người như chủ thể của hoạt động kinh tế.
      B.  Vài nguyên tắc của GHXH về lao động
            1. Khái niệm lao động
       Lao động là gì ? Đã có nhiều triết gia hay luật gia cố gắng tìm cách định nghĩa nó. Có người chỉ coi công việc chân tay nặng nhọc mới là lao động; có người cho rằng chỉ có người đi làm công cho người khác mới là lao động; có người chỉ coi là lao động khi sản xuất được cái gì hữu ích. Các văn kiện xã hội của Giáo hội không tìm cách định nghĩa lao động theo tiêu chuẩn triết lý hay pháp luật, nhưng hiểu lao động theo nghĩa rất rộng bao gồm tất cả các hoạt động của con người: lao động chân tay cũng như lao động trí óc (thí dụ: thảo kế hoạch, điều hành: LE 14), từ những nông dân, thợ mỏ thợ nề cho đến các nhà khoa học, bác sĩ, y tá và không quên các bà nội trợ (LE 9). Nhưng nhất là các văn kiện vạch ra giá trị của lao động cũng như những yêu sách của nó:
      a) Lao động kiện toàn con người, vì nhờ lao động mà con người phát triển tài năng của mình (LE 9d;20).
      b) Lao động cấp dưỡng cho gia đình (LE 10 a.b). -
      c) Lao động xây dựng xã hội (LE 8;10c; CA 31;32).
      d) Lao động chinh phục vũ trụ, ghi dấu bàn tay con người trên vũ trụ (LE 4; CA 31).
            2/ Khía cạnh chủ thể và khách thể
      Tưởng cũng nên biết là đức Gioan Phaolô II (một vị Giáo hoàng đầu tiên đã có kinh nghiệm trực tiếp với xã hội chủ nghĩa) đã dám đối chiếu quan niệm về lao động của Kitô giáo với quan niệm của Marx. Marx nói tới ba khía cạnh của lao động : a) khía cạnh chủ thể, xét như là hoạt động của con người; b) khía cạnh khách thể, nghĩa là đối thể hoạt động; c) khía cạnh công cụ, nghĩa là phương tiện dùng để hoạt động. Trong thông điệp LE, đức Gioan Phaolô II chỉ phân biệt có hai khía cạnh: chủ thể và khách thể; khía cạnh thứ ba của Marx được gộp vào trong khía cạnh khách thể.
      a) Lao động nhìn dưới khía cạnh chủ thể (LE 6) là chính con người, chủ thể của lao động. Chỉ có con người, chủ thể tự do, mới biết làm việc; chứ động vật hay máy móc không biết làm việc.
      b) Lao động dưới khía cạnh khách thể  là những tài sản, cơ sở, dụng cụ, phương tiện, công cuộc ... dùng vào sự làm việc hoặc là kết quả của nó (LE 5). Trong hệ trật các giá trị, cần phải xếp lao động chủ thể lên trên lao động khách thể (LE 6.7.8.9.10.13.18.24...), tài năng của con người đứng trên công cụ vật chất; con người chế ra công cụ chứ không phải ngược lại.
      Nguồn gốc xa xưa của sự phân biệt này là triết học Hy-lạp: sự phân biệt giữa “hành vi” (praxis, agere, agir)  và “hoạt động” (poiesis, facere, faire). “Hành vi” nhằm kiện toàn con người (thí dụ: hành vi nhân đức, hành vi luân lý), ở bên trong con người chúng ta; “hành động” tác dụng trên vật thể bên ngoài chúng ta.
      Việc du nhập sự phân biệt này nhằm đề cao phẩm giá con người: con người làm việc để kiện toàn chính bản thân, trước khi nói đến thay đổi vũ trụ bên ngoài. Lao động phục vụ con người, chứ không phải con người phục vụ lao động. Lao động cần phải được nhân bản hoá.
            3/ Ngoài ra cũng cần nên thêm linh đạo về lao động. Lao động là một phương thế cộng tác với Đấng Tạo hóa (LE 25). Lao động là một phương thế họa lại cuộc đời lao công của đức Kitô (LE 26), cách riêng qua việc hy sinh đau khổ để cứu độ (LE 27). Lao động là phương thế cộng tác với Chúa Thánh Thần trong công tác thánh hóa và canh tân vũ trụ (GS 39; LE 27).
      C. Quyền lợi và bổn phận làm việc
      Như đã nói trên, các sách luân lý cổ truyền nói đến bổn phận làm việc (ai không làm việc thì đừng ăn; tay làm hàm nhai); nhưng với sự tiến triển của các cơ chế xã hội, người ta ý thức quyền làm việc như là một quyền lợi căn bản của con người.
            1/ Quyền làm việc. Ngày nay hầu hết các bản Hiến pháp và Tuyên ngôn quốc tế đều nhìn nhận quyền làm việc. Đây là một quyền lợi mới được nhìn nhận trong thế kỷ XX khi nạn thất nghiệp bành trướng trong các nước kỹ nghệ. Các văn kiện của Giáo hội đòi hỏi quyền này kể từ năm 1941 (sứ điệp của đức Piô XII kỷ niệm 50 năm thông điệp RN; tiếp đến là PT 18, OA 14). Tuy nhiên, trên thực tế, trong các nền pháp chế hiện hành có ba lối giải thích quyền làm việc.
      a) Theo hiến pháp Liên sô 1977 dưới chế độ Lênin, quyền làm việc được hiểu như quyền được Quốc gia bảm đảm cho một chỗ làm việc; do đó người công nhân không thể bị sa thải dù từng cá nhân hay là cả tập thể. Ngày nay ít ai hiểu quyền làm việc theo nghĩa này, bởi vì nó sẽ tiêu diệt sáng kiến cá nhân cũng như khiến các cơ cấu kinh tế trở thành cứng nhắc.
      b)  Một số nước Tây phương hiểu quyền làm việc là quyền được hưởng một mức lương tối thiểu để sinh sống nhờ công việc làm. Nhà nước sẽ đứng ra bảo đảm cho các công nhân mức lương ấy.
      c) Trước nạn thất nghiệp càng ngày càng lan rộng, nhiều quốc gia nhấn mạnh đến phương tiện sinh sống. Theo đó, dù người công nhân kiếm được việc làm hay không, họ cũng cần có tiền để sống. Nhà nước phải liệu cấp dưỡng món tiền tối thiểu ấy.
      Dù giải thích thế nào về quyền làm việc dưới khía cạnh pháp lý đi nữa, quyền làm việc còn mang theo một chuỗi những quyền lợi khác được thông điệp LE quảng diễn ở các số 16-23: quyền được đồng lương tương xứng (GS 67; LE 19), quyền được làm việc trong điều kiện xứng với nhân phẩm (LE 15; CA 35;39;41; thí dụ: ngoài việc bảo đảm khung cảnh vệ sinh, cần làm sao để con người cảm thấy làm việc có ý thức chứ không như cái máy); quyền được tham gia vào việc quản trị xí nghiệp (MM 91; GS 68; LE 14); quyền lập nghiệp đoàn (LE 20; CA 15), quyền di cư. Ngoài ra quyền làm việc cũng cần phải nhìn nhận cho các bà nội trợ, các người tàn tật.
      Tại những nước Âu châu, vấn đề nghiệp đoàn cũng kéo theo vấn đề đình công, sự tham gia của các người Kitô giáo vào những nghiệp đoàn với những màu sắc chính trị khác nhau. Quyền làm việc thường cũng đi đôi với quyền nghỉ ngơi, quyền cấp dưỡng an ninh xã hội, hưu bổng.
            2/ Bổn phận làm việc là một điều được các văn kiện xã hội nói tới ngay từ đầu (LE 16b), dựa theo Kinh thánh (xc. 1Tx 4,10-11; Ep 4,27-28) và truyền thống Giáo hội. Sự làm việc là một phương tiện để kiếm ăn nuôi sống cho mình và cho gia đình, phát triển các tài năng của mình, tránh cảnh nhàn cư, đóng góp vào việc kiến thiết xã hội. Tuy nhiên, khi diễn đạt ra pháp lý, người ta thấy luật pháp của các quốc gia lúng túng khi muốn chế tài nghĩa vụ làm việc. Chỉ có các nước độc tài mới dám đề ra sự lao động cưỡng bách.
      Nên biết là nghĩa vụ làm việc thì khác với nghĩa vụ của công nhân. Nghĩa vụ của công nhân phát sinh từ hợp đồng mà người thợ đã ký kết với cá nhân hay xí nghiệp. Từ hợp đồng đó nảy ra những quyền lợi và nghĩa vụ luân lý và pháp lý mà đôi bên phải thi hành theo như đã cam kết.
      D. Những vấn đề nối kết với lao động
      Giáo huấn xã hội móc nối lao động với nhiều vấn đề khác, được sách TLHT đem vào chương này, tuy vẫn còn trở lại trong những chương kế tiếp.
      1/ Trước hết, quyền lao động được gắn với quyền lợi của người lao động (công nhân). Trong số những quyền lợi căn bản nhất là quyền được trả lương xứng đáng: tiền lương không chỉ dựa trên kết quả sản xuất, và còn liên quan đến mức sống của cá nhân và gia đình. (Lao động và nhân quyền)
      2/ Trong quá khứ cũng như trong hiện tại, lao động được đặt trong tương quan với tư bản: không những là tư bản của người chủ thuê mướn nhân công, mà còn ngay với chính tư bản của chính công nhân. Lao động là một phương tiện để thủ đắc tư bản và những phương tiện sinh sống.
      3/ Ngoài ra, lao động cũng đặt lên vấn đề đối với Nhà Nước.
      Tóm lại, trong vấn đề lao động, chúng ta lại thấy xuất hiện những nguyên tắc căn bản của GHXH: phẩm giá con người, quyền lợi căn bản, nguyên tắc liên đới, nguyên tắc hỗ trợ.
Kết luận. Những vấn đề mới
      1. Sách TLHT không chỉ dừng lại ở chỗ thâu tóm giáo huấn của quá khứ, nhưng cũng gợi lên những vấn đề mới (res novae, tựa đề của thông điệp đức Lêô XIII), hướng đến tương lai: hiện tượng toàn cầu hoá, với những hậu quả đối với các công nhân ở những nước kỹ nghệ cũng như ở những nước đang phát triển.
      2. Chiều kích tâm linh của lao động. Chúng ta đã lướt qua linh đạo của lao động,  nhưng chiều kích tâm linh còn rộng hơn nữa: nó muốn nói đến việc đánh giá các nhu cầu của con người (không phải chỉ có nhu cầu vật chất), và hướng đến chiều hướng siêu việt. Điều này có giá trị kể cả cho những người ngoài Kitô giáo. Lao động có thể trở thành một đề tài đối thoại liên tôn.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét