124. Vì đánh giá cao thông điệp tuyệt vời của Thánh Kinh, Học thuyết Xã hội Công giáo muốn dừng lại để chiêm ngắm trước hết các chiều hướng chính yếu và căn bản của con người; nhờ đó có thể bắt gặp được những khía cạnh ý nghĩa nhất trong mầu nhiệm và phẩm giá con người. Trong quá khứ, đã không thiếu những quan niệm giản lược về con người, mà nhiều quan niệm trong số đó rất tiếc vẫn còn có mặt trên sân khấu của lịch sử hôm nay. Đó là những quan niệm mang tính ý thức hệ hay đơn giản chỉ là kết quả của những thói quen hoặc suy nghĩ phổ biến về con người, về đời sống con người và về định mệnh con người. Mẫu số chung của những quan niệm này là tìm cách làm cho hình ảnh của con người trở nên mơ hồ do chỉ nhấn mạnh một đặc điểm nào đó và bỏ đi các đặc điểm còn lại233.
125. Con người không bao giờ được phép suy nghĩ mình chỉ là một cá thể không hơn không kém, được tạo ra bởi chính mình và hoàn toàn dựa vào chính mình, làm như các đặc điểm chính yếu của con người đều dựa vào chính con người chứ không lệ thuộc một ai khác. Cũng không thể nghĩ con người chỉ là một tế bào đơn thuần trong một cơ thể, mà khuynh hướng nhiều nhất là nhìn nhận nó có vai trò vận hành trong toàn bộ hệ thống. Những quan niệm giản lược về sự thật trọn vẹn của con người như thế đã từng là mối lo của Giáo Hội, và Giáo Hội đã không ngừng lên tiếng phản đối, như đã phản đối các viễn tượng mang tính giản lược tai hại khác, và thay vào đó, Giáo Hội đã mạnh mẽ công bố “con người cá thể không được coi mình là những đơn vị cô lập như những hạt cát, mà là những đơn vị nối kết nhau bằng chính sức mạnh là bản tính và định mệnh nội tại của mình, nối kết với nhau thành những quan hệ rất hữu cơ và hài hoà”234. Giáo Hội đã quả quyết người ta không thể hiểu con người “chỉ là một nhân tố, một phân tử trong cơ thể xã hội”235. Điều Giáo Hội quan tâm là làm sao cho người ta hiểu rằng khi Giáo Hội khẳng định sự ưu việt của con người, Giáo Hội không có ý muốn đề cao nhãn quan cá nhân chủ nghĩa hoặc ô hợp chủ nghĩa.
126. Khi mời gọi phải tìm kiếm bất cứ điều gì tốt lành và xứng đáng với con người ở bất cứ chỗ nào có thể tìm kiếm (x. 1 Ts 5,21), đức tin Kitô giáo “đã tự đặt mình đứng bên trên hay đôi khi chống lại các ý thức hệ, ở chỗ đức tin này nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt và là Đấng Tạo Hoá, là Đấng mời gọi con người, thông qua mọi loài thụ tạo, như một thụ tạo được phú bẩm trách nhiệm và tự do”236.
Học thuyết Xã hội Công giáo tìm cách chỉ ra những khía cạnh khác nhau của mầu nhiệm con người: con người phải được tìm hiểu “trong sự thật toàn vẹn của mình, từ sự hiện hữu của bản thân con người cho đến chiều hướng cộng đồng và xã hội”237, với sự quan tâm đặc biệt sao cho giá trị của con người được mọi người sẵn sàng nhìn nhận.
A. TÍNH THỐNG NHẤT CỦA CON NGƯỜI
127. Con người được Thiên Chúa tạo dựng thành một thể thống nhất của xác và hồn238. “Hồn bất tử và thiêng liêng là nguyên lý thống nhất của con người, làm con người hiện hữu như một tổng thể – một đơn vị duy nhất gồm xác và hồn – và như một ngôi vị. Những xác định này không chỉ cho thấy thân xác, từng được hứa hẹn sẽ sống lại, cũng sẽ được vinh quang; chúng còn nhắc nhở chúng ta rằng lý trí và ước muốn tự do luôn gắn chặt với tất cả những cơ năng của thân xác và giác quan. Con người, kể cả thân xác, được giao phó hoàn toàn cho chính con người, và chính nhờ sự thống nhất xác hồn ấy mà con người là chủ thể của tất cả các hành vi luân lý của mình”239.
128. Thông qua thân xác mình, con người thống nhất nơi mình các yếu tố của thế giới vật chất; những yếu tố ấy “đạt tới đỉnh cao nơi con người và thông qua con người, chúng tự do cất lời ca ngợi Đấng Tạo Hoá”240. Nhờ chiều hướng này, con người có thể tham gia vào thế giới vật chất, không phải như nhốt mình trong một nhà tù hay bắt mình phải lưu đày. Vì thế, không thích đáng chút nào khi chúng ta khinh rẻ đời sống thể xác; mà đúng ra “con người… phải nhìn thân xác mình như một điều tốt lành và đáng quý, vì thân xác ấy do chính Chúa tạo dựng và sẽ được Ngài cho sống lại trong ngày sau hết”241. Tuy nhiên, cũng chính vì có chiều hướng thân xác này, nhất là sau khi thân xác ấy bị tội lỗi gây thương tích, mà con người cảm nghiệm được những sự nổi loạn của thân xác và những xu hướng lệch lạc của tâm hồn mình; con người phải luôn luôn cẩn thận theo dõi chúng, kẻo mình bị nô lệ chúng và trở thành nạn nhân của một nhân sinh quan hoàn toàn trần tục.
Thông qua sự linh thiêng của mình, con người vượt lên trên thế giới của những sự vật và đi vào nơi sâu thẳm nhất của thực tại. Khi bước vào lòng mình, nghĩa là khi suy nghĩ về định mệnh của mình, con người khám phá ra mình trổi vượt hơn thế giới vật chất vì mình có phẩm giá hết sức độc đáo là phẩm giá của một người được trò chuyện với Thiên Chúa, được quyết định về cuộc đời mình dưới con mắt của Thiên Chúa. Trong đời sống nội tâm, con người nhận ra mình có “một linh hồn bất tử và thiêng liêng”, con người không chỉ là “một mảnh vụn của thiên nhiên hay một thành phần vô danh trong đô thị loài người”242.
129. Bởi đó, con người có hai đặc điểm khác nhau: là hữu thể vật chất, có liên quan với thế giới này qua thân xác mình, và là hữu thể thiêng liêng, mở ra với siêu việt và có thể khám phá ra “những chân lý còn sâu xa hơn” nhờ trí khôn của mình, qua đó “con người chia sẻ ánh sáng của trí tuệ Thiên Chúa”243. Giáo Hội khẳng định: “Hồn và xác hợp nhất với nhau sâu xa đến nỗi phải coi hồn là ‘mô thức’ của xác, nghĩa là chính vì hồn thiêng liêng mà thân xác làm bằng vật chất mới trở thành một thân thể của con người sống động; tinh thần và vật chất nơi con người không phải là hai bản tính kết hợp với nhau, mà đúng hơn, nhờ sự kết hợp của chúng với nhau làm thành một bản tính duy nhất”244. Cả chủ nghĩa duy tâm coi thường thực tại của thân xác, lẫn chủ nghĩa duy vật coi tinh thần chỉ là một biểu hiện của vật chất, đều không tôn trọng bản tính phức tạp, sự toàn vẹn và tính thống nhất của hữu thể con người.
B. CON NGƯỜI MỞ RA VỚI SIÊU VIỆT VÀ ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ
a. Mở ra với siêu việt
130. Mở ra với siêu việt là một đặc tính của con người: con người mở ra với Đấng vô biên cũng như với mọi thụ tạo. Trên hết, con người mở ra với Đấng vô biên, tức là Thiên Chúa, vì nhờ trí khôn và ý chí, con người có thể nâng mình lên trên mọi thụ tạo và cả chính mình; con người có thể độc lập với thụ tạo, tự do trong quan hệ với thụ tạo, vươn tới sự thật toàn diện và điều thiện tuyệt đối. Con người cũng mở ra với tha nhân, với mọi người nam nữ trong thế giới, vì chỉ khi hiểu mình trong tương quan với “ngôi thứ hai”, con người mới xưng mình được là “tôi”. Con người bước ra khỏi chính mình, khỏi việc chỉ lo bảo vệ cuộc sống của chính mình để bước vào một quan hệ đối thoại và hiệp thông với những người khác.
Con người mở ra với sự hiện hữu sung mãn, với chân trời vô biên của hiện hữu. Nơi mình, con người có khả năng vượt lên trên những đối tượng cá biệt. Theo một nghĩa nào đó, linh hồn là tất cả mọi sự nhờ chiều hướng nhận thức của nó: “mọi sự vật phi vật chất đều mang tính vô biên một cách nào đó, bao lâu chúng bao trùm lấy mọi sự, hoặc vì đây là vấn đề thuộc về bản chất của thực tại thiêng liêng, mà nó vận hành như một khuôn mẫu và là sự tương đồng của hết mọi sự, như trường hợp của Thiên Chúa, hoặc vì linh hồn có sự tương đồng với mọi sự, một cách ‘hiện thể’ (in actu) như các thiên thần, hay ‘tiềm thể’ (in protentia) như các linh hồn”245.
b. Độc đáo và không thể sao chép
131. Con người hiện hữu như một hữu thể độc đáo và không thể sao chép, con người hiện hữu như một cái “tôi” có khả năng hiểu mình, làm chủ mình và tự quyết về mình. Con người là một hữu thể hiểu biết và có ý thức, có khả năng suy nghĩ về mình và bởi đó ý thức về mình và về hành vi của mình. Tuy nhiên, không phải trí khôn, ý thức và tự do xác định con người, mà đúng hơn chính con người là nền tảng cho những hành vi của trí khôn, ý thức và tự do. Những hành vi này có thể thiếu hay ngay cả không có, thì con người vẫn không ngừng là con người.
Phải luôn hiểu con người trong sự độc đáo, không thể sao chép và không thể xâm phạm. Thật vậy, con người hiện hữu trước hết như một thực thể làm chủ thể, như một trung tâm của ý thức và tự do mà những kinh nghiệm sống của mỗi một người, không thể so sánh với kinh nghiệm của bất cứ ai. Điều này cũng nhấn mạnh đến việc không thể chấp nhận bất cứ toan tính nào muốn giản lược thân phận con người bằng cách ép con người đi vào trong các phạm trù đã được dự tính trước hay vào các hệ thống quyền lực đã có sẵn, dù có thuộc ý thức hệ hay không. Sự kiện này trước hết đòi hỏi mọi con người trên trái đất, nam cũng như nữ, không chỉ đơn giản là phải được người khác tôn trọng, nhất là đối với các cơ quan chính trị và xã hội, cũng như các nhà lãnh đạo các cơ quan ấy, mà hơn thế nữa, điều ấy còn có nghĩa là mối bận tâm trước hết của con người đối với người khác, đặc biệt là của các cơ quan nói trên, là phải làm sao để thăng tiến và phát triển toàn diện con người.
c. Tôn trọng nhân phẩm
132. Một xã hội công bằng chỉ trở thành hiện thực khi được xây dựng trên việc tôn trọng phẩm giá siêu việt của con người. Con người là mục tiêu tối hậu của xã hội, xã hội được tổ chức là nhắm tới con người: “Thế nên, trật tự xã hội và sự phát triển của xã hội phải luôn luôn nhắm tới lợi ích của con người, vì trật tự sự vật phải lệ thuộc vào trật tự con người, chứ không theo cách ngược lại”246. Không thể tách rời việc tôn trọng phẩm giá con người với việc tuân thủ nguyên tắc trên. Cần phải “coi mọi người thân cận không trừ ai như cái tôi khác của mình, trong đó trước hết phải xét tới đời sống của họ và các phương tiện cần thiết để sống xứng với phẩm giá”247. Mọi chương trình chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học và văn hoá đều phải được soi sáng từ ý thức về sự ưu việt của từng con người vượt trên cả xã hội248.
133. Bởi đó, không bao giờ người ta được lèo lái con người vào những mục tiêu xa lạ với sự phát triển của con người, một sự phát triển chỉ có thể hoàn thành mỹ mãn trong Thiên Chúa và trong kế hoạch cứu độ của Ngài: thật vậy, trong nội tại của mình, con người vượt lên trên vũ trụ và là thụ tạo duy nhất được Thiên Chúa muốn có vì chính nó249. Chính vì lý do đó, không được hạn chế một cách bất công đối với sự sống của con người, sự phát triển tư duy của con người, tiện ích của con người hay những người tham gia vào những hoạt động cá nhân và xã hội của con người khi họ sử dụng quyền hạn và tự do của mình.
Không thể lấy con người làm phương tiện để thực hiện các dự án kinh tế, xã hội hay chính trị, những dự án do một chính quyền nào đó áp đặt, kể cả khi nhân danh một sự tiến bộ của một cộng đồng dân sự nói chung hay của những người khác, bất kể đó là sự tiến bộ trong hiện tại hay trong tương lai. Bởi đó, chính quyền cần cẩn thận theo dõi để những hạn chế đối với tự do hay một gánh nặng áp đặt trên một hoạt động nào đó của con người không bao giờ làm phương hại tới phẩm giá con người, có như thế mới bảo đảm cho các quyền của con người được thực thi cách hữu hiệu. Tất cả những điều này một lần nữa đều dựa trên quan điểm coi con người là một ngôi vị, tức là một chủ thể tích cực và có trách nhiệm về quá trình tăng trưởng của chính mình, cùng với cộng đồng mà mình là thành viên.
134. Những thay đổi đích thực của xã hội chỉ bền vững và hữu hiệu bao lâu chúng đặt nền tảng trên những thay đổi kiên quyết trong cách sống của con người. Người ta sẽ không bao giờ có thể làm cho đời sống xã hội được phù hợp với luân lý nếu không khởi sự từ con người và không lấy con người làm điểm tham khảo: thật vậy, “sống có luân lý là làm chứng cho phẩm giá của con người”250. Rõ ràng nhiệm vụ của con người là phải phát triển các thái độ luân lý, là những thái độ căn bản đối với bất cứ xã hội nào thật sự muốn trở nên nhân bản (công bằng, liêm khiết, trung thực…), đó cũng là những thái độ mà đơn giản là không thể cứ chờ đợi nơi người khác hay cứ uỷ thác cho các cơ quan. Nhiệm vụ của hết mọi người, đặc biệt là của những người đang nắm giữ các trách nhiệm về chính trị, tư pháp hay chuyên môn, là phải trở thành người đánh thức lương tâm xã hội và là người đầu tiên minh chứng cho người khác thấy các điều kiện xã hội dân sự thì xứng đáng với con người.
C. SỰ TỰ DO CỦA CON NGƯỜI
a. Giá trị và giới hạn của tự do
135. Con người chỉ có thể hướng đến điều tốt trong tự do, đó là ơn mà Chúa đã ban cho con người như một trong những dấu hiệu cao quý nhất cho biết con người giống Thiên Chúa251. “Vì Thiên Chúa muốn con người cứ sống ‘dưới sự kiểm soát theo những quyết định của chính con người’ (Hc 15,14) để con người có thể tìm kiếm Đấng Tạo Hoá một cách tự nhiên và tự do khám phá ra sự hoàn thiện tuyệt vời nhờ trung thành với Ngài. Thế nên, chính phẩm giá con người buộc con người phải hành động phù hợp với sự lựa chọn có hiểu biết và tự do, nghĩa là được thúc đẩy và hướng dẫn một cách rất riêng tư từ bên trong, chứ không do sự thôi thúc của bản năng mù quáng hay bởi áp lực hoàn toàn bên ngoài”252.
Con người có lý khi trân trọng tự do và say mê theo đuổi nó: cũng có lý khi ao ước và khi phải tổ chức cũng như hướng dẫn đời sống cá nhân và xã hội của mình theo sáng kiến riêng, đồng thời dám chịu trách nhiệm về việc đó253. Thật vậy, tự do không những giúp con người sửa chữa tình trạng của sự việc bên ngoài mình thế nào cho đúng, mà còn quyết định sự phát triển của con người thông qua những lựa chọn phù hợp với điều tốt thật sự254. Có như thế, con người mới sinh ra mình, mới làcha của chính mình255, mới xây dựng trật tự xã hội được256.
136. Tự do không phải là một điều gì ngược với sự lệ thuộc vào Thiên Chúa của con người, trong tư cách là một thụ tạo257. Mạc khải dạy rằng quyền quyết định điều tốt hay xấu không thuộc về con người, mà chỉ thuộc về Thiên Chúa (x. St 2,16-17). “Con người chắc chắn có tự do bao lâu con người hiểu biết và chấp nhận giới răn của Chúa. Con người cũng có một sự tự do hết sức rộng lớn vì con người được phép ăn ‘bất cứ cây nào trong vườn’. Nhưng tự do của con người không phải là tự do vô hạn: nó phải dừng lại trước ‘cây biết lành biết dữ’, vì con người được mời gọi để biết chấp nhận luật luân lý do Thiên Chúa ban ra. Thật vậy, sự tự do của con người chỉ được thực hiện trọn vẹn và đầy đủ thật sự khi con người biết chấp nhận luật đó”258.
137. Muốn thực hành đúng đắn sự tự do cá nhân, con người cần có những điều kiện đặc biệt liên quan đến trật tự kinh tế, xã hội, pháp lý, chính trị và văn hoá, là những điều kiện rất “hay bị coi thường hoặc vi phạm. Những tình trạng mù quáng và bất công như thế sẽ làm hại tới trật tự luân lý, lôi kéo cả người mạnh lẫn kẻ yếu vào vòng cám dỗ phạm tội chống lại đức bác ái. Khi đi trệch khỏi luật luân lý, con người làm hại chính sự tự do của mình, trở thành tù nhân của chính mình, phá hỏng tình thân hữu với tha nhân và chống lại sự thật của Thiên Chúa”259. Việc loại trừ bất công làm thăng tiến tự do và phẩm giá con người: Tuy nhiên, “điều trước tiên cần làm là vận dụng các khả năng tinh thần và luân lý của cá nhân, cũng như nhắc nhở nhu cầu thường xuyên của con người là phải hoán cải nội tâm, nếu muốn thực hiện những sự thay đổi kinh tế và xã hội thực sự phục vụ con người”260.
b. Tự do liên kết với sự thật và luật tự nhiên
138. Khi thực hành tự do, con người thực hiện những hành vi tốt về mặt luân lý, có giá trị xây dựng con người và xã hội, nếu con người biết tuân theo sự thật, nghĩa là không tự coi mình là tạo hoá và là chủ nhân tuyệt đối của sự thật hay các chuẩn mực đạo đức261. Thật vậy, tự do không “lấy mình làm nguồn gốc tuyệt đối và vô điều kiện…, nhưng nguồn gốc của nó là cuộc sống trong đó tự do được định vị và thể hiện để cùng lúc vừa là giới hạn vừa là khả năng cho tự do hoạt động. Chúng ta có tự do của con người trong tư cách là các thụ tạo; đó là tự do được ban cho như một quà tặng, con người đón nhận tự do như nhận một hạt giống mà mình có bổn phận phải gieo trồng với tinh thần trách nhiệm”262. Còn nếu ngược lại thì tự do sẽ chết, đồng thời huỷ hoại con người và xã hội263.
139. Sự thật liên quan đến điều tốt và điều xấu được nhìn nhận một cách thực tiễn và cụ thể dựa vào phán đoán của lương tâm, sự thật này đưa con người tới chỗ sẵn sàng chịu trách nhiệm về điều tốt đã làm và điều xấu đã phạm. “Bởi đó, khi lương tâm đưa ra lời phán đoán thực tiễn, buộc con người phải thực hiện một hành vi đã quy định, người ta thấy giữa tự do và sự thật rõ ràng có tương quan với nhau. Chính vì lý do này mà lương tâm biểu lộ mình khi đưa ra những lời “phán đoán”, phản ánh sự thật về điều hay lẽ phải, chứ không phải khi có những “quyết định” võ đoán. Sự chín chắn và trách nhiệm của những phán đoán ấy - do một cá nhân là chủ thể đã nói ra hay đã thực hiện - không được đánh giá bởi việc lương tâm có được tự do đối với sự thật khách quan hay không, dù chủ thể được cho là tự mình quyết định, mà tuỳ thuộc vào việc con người có kiên trì tìm kiếm sự thật và có để cho sự thật đó hướng dẫn mình khi hành động hay không”264.
140. Khi hành xử tự do là chúng ta gián tiếp liên hệ đến một luật luân lý tự nhiên, có tính phổ quát, đi trước và liên kết hết mọi quyền lợi và nghĩa vụ của con người265. Luật tự nhiên “không gì khác hơn là chính ánh sáng của trí khôn được Thiên Chúa phú bẩm trong chúng ta. Nhờ đó, chúng ta biết phải làm gì và phải tránh gì. Thiên Chúa đã ban ánh sáng hay luật này cho thụ tạo”266. Luật này tham dự vào luật vĩnh viễn của Thiên Chúa, được đồng hoá với chính Thiên Chúa267. Luật này được gọi là luật “tự nhiên” vì lý trí ban bố luật này là lý trí của bản tính con người. Nó phổ quát và liên hệ với hết mọi người bao lâu nó được thiết lập bởi lý trí. Những mệnh lệnh chính của luật này, cũng là luật Thiên Chúa và luật tự nhiên, được trình bày trong Mười Điều Răn, cho biết những chuẩn mực tiên quyết và thiết yếu điều khiển đời sống luân lý268. Tiêu điểm của đời sống luân lý chính là hành vi hướng lên Thiên Chúa và phục tùng Thiên Chúa, là nguồn phát sinh và là Đấng phân xử tất cả những gì là tốt, đồng thời là hành vi nhìn nhận mọi người đều bình đẳng với mình. Luật tự nhiên phản ánh phẩm giá con người và đặt nền tảng cho các nghĩa vụ căn bản của con người269.
141. Trong tình trạng có nhiều nền văn hoá khác nhau như hiện nay, luật tự nhiên chính là điểm liên kết mọi dân tộc, thống nhất các nguyên tắc chung. Dù khi áp dụng các luật ấy chúng ta cần phải thích nghi cho phù hợp với các điều kiện sống khác nhau theo nơi chốn, thời gian và hoàn cảnh270, nhưng luật tự nhiên vẫn bất biến “dưới làn sóng các tư tưởng và phong tục tập quán khác nhau, đồng thời hỗ trợ sự tiến triển của các tư tưởng và phong tục tập quán ấy… Ngay cả khi người ta chối bỏ các nguyên tắc của luật tự nhiên, luật tự nhiên vẫn không thể bị tiêu diệt hay bị khai trừ khỏi tâm hồn con người. Nó luôn luôn tái hiện trong đời sống các cá nhân và xã hội”271.
Tuy nhiên, các mệnh lệnh của luật tự nhiên không được mọi người nhận thức rõ ràng và ngay từ đầu. Các sự thật tôn giáo và luân lý chỉ có thể được nhận thức “bởi mọi người một cách dễ dàng, chắc chắn và không trộn lẫn với sai lầm”272 là nhờ sự trợ giúp của ơn Chúa và Mạc khải. Luật tự nhiên là nền tảng mà Chúa dọn sẵn để chúng ta tiếp nhận luật mạc khải và ân sủng, trong việc phối hợp hài hoà với hoạt động của Thánh Thần273.
142. Luật tự nhiên, cũng là luật Chúa, không thể bị huỷ bỏ bởi tội con người274. Luật tự nhiên là nền tảng luân lý thiết yếu để con người xây dựng cộng đồng nhân loại và thiết lập dân luật, tức là những kết luận có tính cụ thể và phụ thuộc rút ra từ những nguyên tắc của luật tự nhiên275. Nếu nhận thức của con người về tính phổ quát của luật luân lý trở nên mù mờ thì người ta không thể nào xây dựng sự hiệp thông bền bỉ và chân chính với người khác, vì lúc đó không có sự tương ứng giữa sự thật và điều tốt, “dù có tội hay không, hành vi của chúng ta cũng làm tổn thương sự hiệp thông giữa người với người, và làm hại mỗi người”276. Thật vậy, chỉ khi nào ăn rễ sâu vào bản tính chung, sự tự do mới làm con người trở nên có tinh thần trách nhiệm và mới giúp con người biện minh được đời sống luân lý công khai của mình. Ai tự xưng là chuẩn mực duy nhất để đo lường các thực tại và sự thật, kẻ đó không thể sống bình an trong xã hội với đồng loại và không thể nào hợp tác với họ277.
143. Sự tự do có hướng chiều một cách bí ẩn ngược lại thái độ cởi mở trước sự thật và điều tốt của con người, và thường chuộng điều xấu hơn, thích khép kín cách ích kỷ, muốn nâng mình cao ngang tầm thần thánh, để tự tạo ra điều tốt và điều xấu: “Dù được dựng nên bởi Thiên Chúa trong tình trạng thánh thiện, nhưng ngay từ đầu lịch sử, con người đã lạm dụng tự do của mình, với sự khiêu khích thúc giục của thần dữ. Con người tự đặt mình chống lại Thiên Chúa và tìm cách đạt được mục đích đời mình bên ngoài Thiên Chúa… Thường xuyên từ chối nhìn nhận Thiên Chúa là căn nguyên của mình, con người cũng cắt đứt quan hệ với mục tiêu tối hậu của mình, cũng như với chính mình, với người khác, và với các thụ tạo”278. Bởi đó, cần phải giải phóng sự tự do của con người. Nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, Đức Kitô đã giải thoát con người khỏi sự tự ái lệch lạc279, là nguồn khiến con người khinh bỉ người khác và làm cho mọi mối quan hệ của con người mang sắc thái thống trị người khác. Đức Kitô cho chúng ta thấy sự tự do chỉ trở nên trọn vẹn khi biết hiến dâng bản thân mình280. Nhờ biết hy sinh trên thánh giá, Đức Giêsu đã đưa con người trở về hiệp thông lại với Thiên Chúa và tha nhân.
D. PHẨM GIÁ BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI NGƯỜI
144. “Thiên Chúa tỏ ra không thiên vị ai” (Cv 10,34; x. Rm 2,11; Gl 2,6; Ep 6,9), vì mọi người đều có cùng phẩm giá của những thụ tạo được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa281. Việc Nhập thể của Con Thiên Chúa cho thấy mọi người đều bình đẳng về phẩm giá: “Không có Do Thái hay Hy Lạp, không có nô lệ hay tự do, không có nam hay nữ, vì tất cả anh em đều là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28; x. Rm 10,12; 1 Cr 12,13; Cl 3,11).
Vì vinh quang của Thiên Chúa đã sáng lên phần nào trên khuôn mặt của mỗi người, nên phẩm giá của mỗi người trước mặt Chúa chính là nền tảng đem lại phẩm giá của con người trước mặt người khác282. Ngoài ra, đó cũng là nền tảng cuối cùng đưa tới sự bình đẳng và tình huynh đệ căn bản giữa mọi người, bất kể chủng tộc, quốc gia, giới tính, nguồn gốc, văn hoá hay giai cấp.
145. Chỉ khi nào nhìn nhận phẩm giá con người, cá nhân mới có thể phát triển riêng cho mình và chung với người khác (x. Gc 2,1-9). Để thúc đẩy sự phát triển này, cần đặc biệt giúp đỡ những người yếu kém nhất, bảo đảm cho cả nam lẫn nữ có những điều kiện phát triển đồng đều, cũng như sự bình đẳng khách quan giữa các giai cấp xã hội khác nhau trước luật pháp283.
Trong các mối quan hệ giữa các dân tộc và các quốc gia, những điều kiện tiên quyết là các dân tộc và quốc gia phải được bình đẳng và coi trọng như nhau thì cộng đồng quốc tế mới phát triển đích thực284. Về phương diện này, dù có tiến hành thế nào cũng không được quên rằng hiện nay vẫn còn nhiều điều bất bình đẳng và nhiều hình thức lệ thuộc nhau285.
Bên cạnh việc nhìn nhận cách đồng đều phẩm giá của mỗi người và mỗi dân tộc, cũng cần phải nhận thức rằng người ta chỉ có thể bảo vệ và thăng tiến phẩm giá con người nếu việc ấy được thực hiện bởi cả cộng đồng và bởi toàn thể nhân loại. Chỉ khi hành động qua lại giữa các cá nhân và giữa các dân tộc, thật sự nhắm tới ích lợi của hết mọi người, thì tình huynh đệ đại đồng đích thực mới có được286; bằng không tất cả chúng ta sẽ nghèo nàn hơn do các điều kiện bất bình đẳng nghiêm trọng vẫn còn.
146. Dù phái “nam” và phái “nữ” là sự phân biệt hai cá thể có cùng phẩm giá, nhưng đó không phải là sự bình đẳng tĩnh, vì sự cá biệt của nữ giới khác với sự cá biệt của nam giới, sự khác biệt trong bình đẳng như thế sẽ làm phong phú và rất cần để giúp cuộc sống xã hội được hài hoà: “Tạo điều kiện để phụ nữ có mặt cách hợp lý trong Giáo Hội và xã hội chính là một sự quan tâm thấu đáo và sâu sắc hơn về nền tảng nhân học làm nên nam tính và nữ tính trong con người, hầu minh định bản sắc riêng của người phụ nữ trong tương quan với nam giới, tức là khác nhau nhưng bổ túc cho nhau, không những trong các vai trò phải nắm giữ và chức năng phải thi hành, mà sâu xa hơn, cả trong cơ cấu và ý nghĩa làm cho người phụ nữ trở nên đúng là một ngôi vị”287.
147. Người nữ là phần bổ sung cho người nam, cũng như người nam là phần bổ sung cho người nữ: người nam và người nữ bổ túc cho nhau, không chỉ về mặt thể lý và tâm lý, mà cả về mặt hữu thể. Chính vì tính cách có hai mặt “nam” và “nữ” mà hữu thể con người mới trở thành một thực tại đầy đủ. Con người là “thể thống nhất gồm hai mặt”288, hay nói cách khác, là mối quan hệ “hai trong một”, nhờ đó mỗi người có thể trải nghiệm mối quan hệ liên vị và hỗ tương, vừa như một quà tặng vừa như một sứ mạng: “Thiên Chúa đã giao cho ‘thể thống nhất gồm hai mặt’ này không những việc sinh sản và đời sống gia đình, mà còn cả việc kiến tạo lịch sử”289. “Người nữ là ‘trợ tá’ cho người nam, cũng như người nam là ‘trợ tá’ cho người nữ!”290: khi người nam và người nữ gặp nhau, thì nhận thức thống nhất của con người được hình thành, không dựa trên logic tập trung vào mình và khẳng định mình, mà là dựa trên logic yêu thương và liên đới.
148. Những người thiếu khả năng vẫn là những chủ thể con người trọn vẹn, với những quyền lợi và nghĩa vụ: “Dù có những giới hạn và đau khổ tác động lên thân thể và các khả năng của mình, họ vẫn cho thấy mình có đầy đủ phẩm giá và sự cao cả của con người”291. Vì người khuyết tật vẫn là những chủ thể có đầy đủ quyền hạn, nên cần phải giúp họ tham gia vào đời sống gia đình và xã hội một cách đầy đủ về mọi chiều hướng ở bất cứ cấp độ nào họ có thể tham gia và tuỳ theo khả năng của họ.
Cần phải đẩy mạnh các quyền lợi của những người khuyết tật bằng những biện pháp hữu hiệu và thích đáng: “Thật không xứng đáng chút nào với con người, thậm chí còn phủ nhận đặc tính chung của con người, khi chỉ nhận những người có đầy đủ chức năng vào sinh hoạt cộng đồng và ngành nghề. Làm như thế là kỳ thị một cách nghiêm trọng, phân biệt người mạnh khoẻ với người đau yếu”292. Cần phải chú ý nhiều không những tới các điều kiện thể lý và tâm lý trong lao động, tới việc trả lương công bằng, tới khả năng thăng tiến và việc loại bỏ các trở ngại, mà còn cần chú ý tới những khía cạnh tình cảm và giới tính của những người khuyết tật: “Họ cũng cần yêu và được yêu, cần sự dịu dàng, gần gũi và thân mật”293, tuỳ theo khả năng của họ, đồng thời vẫn tôn trọng trật tự luân lý, là trật tự chung cho cả người lành lặn lẫn người khuyết tật.
E. BẢN TÍNH XÃ HỘI CỦA CON NGƯỜI
149. Tự bản chất, con người là một hữu thể xã hội294 vì Thiên Chúa – Đấng tạo dựng con người – muốn như thế295. Thật vậy, bản tính con người biểu lộ ra như bản tính của một hữu thể tìm cách đáp ứng các nhu cầu của mình. Việc biểu lộ này dựa vào chủ thể tính có tương quan, nghĩa là theo cách của một hữu thể tự do có trách nhiệm, vừa nhìn nhận nhu cầu phải tham gia cộng tác với các hữu thể khác, vừa có khả năng hiệp thông với họ cả trong hiểu biết lẫn yêu thương. “Một xã hội là một tập thể gồm những con người sống liên kết với nhau một cách sống động do có chung một nguyên lý thống nhất, vượt lên trên mỗi người. Là một tập hợp vừa hữu hình, vừa thiêng liêng, xã hội tồn tại qua thời gian: vừa thu thập quá khứ vừa chuẩn bị tương lai”296.
Bởi đó, cần phải nhấn mạnh rằng đời sống cộng đồng là một đặc điểm tự nhiên phân biệt con người với các thụ tạo khác trên trần gian. Chính hoạt động xã hội mang trong mình một dấu hiệu đặc biệt về con người và nhân loại, đó là con người luôn làm việc trong một cộng đồng gồm nhiều người: đây chính là dấu hiệu xác định các đặc điểm bên trong của con người, và theo một nghĩa nào đó, đây chính là cái làm nên bản tính của con người297. Nhìn trong ánh sáng đức tin, đặc điểm đó còn có một ý nghĩa sâu xa và bền vững hơn. Được dựng nên theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (x. St 1,26), và được dựng nên hữu hình trong vũ trụ để có thể sống thành xã hội (x. St 2,20.23), đồng thời để làm chủ trái đất (x. St 1,26.28-30), con người được mời gọi ngay từ đầu hướng đến đời sống trong xã hội: “Thiên Chúa không tạo dựng con người như một ‘hữu thể cô độc’, nhưng Ngài muốn tạo con người thành một ‘hữu thể xã hội’. Bởi đó, đời sống xã hội không phải là cái gì nằm ngoài con người: con người chỉ có thể tăng trưởng và thực hiện ơn gọi của mình trong tương quan với người khác”298.
150. Bản tính xã hội của con người không tự động đưa họ tới chỗ hiệp thông với nhau, dâng hiến bản thân cho nhau. Vì tự phụ và ích kỷ, con người khám phá nơi bản thân mình có nhiều mầm mống thích cư xử phi xã hội, thúc giục họ tới chỗ tự giam mình trong cá tính riêng của mình và tìm cách thống trị người khác299. Xã hội nào muốn xứng với tên gọi của mình đều phải tin chắc rằng mình sẽ là xã hội đích thực khi tất cả mọi thành phần trong xã hội có thể theo đuổi điều tốt cho mình và cho người khác, nhờ nhận biết đâu là điều tốt. Chính vì yêu quý điều có ích cho mình và cho người khác mà người ta quy tụ thành những tập thể bền vững nhằm tìm kiếm ích lợi chung. Các xã hội loài người khác nhau cũng phải tạo ra nơi mình những quan hệ liên đới, liên lạc và cộng tác với nhau để phục vụ con người và công ích300.
151. Bản tính xã hội của con người không chỉ có một hình một dạng, nhưng được bộc lộ ra bằng nhiều cách. Thật vậy, công ích có được là tuỳ ở chỗ sự đa nguyên về xã hội có lành mạnh hay không. Mọi thành phần khác nhau của xã hội đều được mời gọi xây dựng một tập thể thống nhất và hoà hợp, trong đó mỗi thành phần đều có thể duy trì và phát triển những đặc tính riêng và sự tự trị của mình. Một số thành phần – như gia đình, cộng đồng dân sự và cộng đồng tôn giáo – đáp ứng trực tiếp hơn bản tính sâu xa của con người, nhưng cũng có những thành phần khác xuất hiện dựa trên căn bản tự nguyện nhiều hơn. “Để đẩy mạnh sự tham gia càng nhiều người càng tốt vào đời sống xã hội, cần khuyến khích thành lập các hiệp hội và các tổ chức tự nguyện ‘trên cấp quốc gia và quốc tế, có liên quan tới các mục tiêu kinh tế và xã hội, các hoạt động văn hoá và giải trí, thể thao, chính trị và các ngành nghề khác’. Việc xã hội hoá này cũng cho thấy khuynh hướng tự nhiên của con người, là nhằm thực hiện các mục tiêu mà các cá nhân tự mình không làm được. Điều này sẽ giúp phát triển các đức tính của con người, nhất là khả năng sáng tạo và ý thức trách nhiệm, đồng thời giúp bảo đảm các quyền lợi của con người”301.
-----------------------------------------------------------------------------------------------
233 x. Phaolô VI, Tông thư Octogesima Adveniens, 26-39: AAS 63 (1971), 420-428.
234 Piô XII, Thông điệp Summi Pontificatus: AAS 31 (1939), 463.
235 Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus, 13: AAS 83 (1991), 463.
236 Phaolô VI, Tông thư Octogesima Adveniens, 27: AAS 63 (1971), 421.
237 Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptor Hominis, 14: AAS 71 (1979), 284
238 x. Công đồng Chung Lateranô IV, ch.1, De fide Catholica: DS 800, tr. 259; CĐ.
Vatican I, Dei Filius, c. 1: De Deo Rerum omnium Creatore: DS 3002, tr. 587;
Vatican I, các khoản 2, 5: DS 30223, 3025, tr. 592, 593.
239 Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor, 48: AAS 85 (1993), 1172.
240 CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 14: AAS 58 (1966), 1035; x.
Giáo lý Giáo hội Công giáo, 364.
241 CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 14: AAS 58 (1966), 1035.
242 CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 14: AAS 58 (1966), 1036; x.
Giáo lý Giáo hội Công giáo, 363, 1703.
243 CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 15: AAS 58 (1966), 1036.
244 Giáo lý Giáo hội Công giáo, 365.
245 Thánh Tôma Aquinô, Commentum in tertium librum Sententiarum, d. 27, q. 1, a. 4:
Ex utraque autem parte res immateriales infinitatem habent quo dammodo, quia sunt
qudammodo omnia, sive inquantum essentia rei immaterialis est exemplar et
similitudo omnium, sicut in Deo accidit, sive quia habet similitudinem omnium vel
actu vel potentia, sicut accidit in Angelis et animabus; x. Thánh Tôma Aquinô, Summa
Theologiae, (Tổng luận Thần học) I,q. 75, a.5: Nhà Xuất bản Leon. 5, 201-203.
246 CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 26: AAS 58 (1966), 1046-1047.
247 Ibid., 27: AAS 58 (1966), 1047.
248 x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 2235.
249 x. CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 24: AAS 58 (1966), 1045;
Giáo lý Giáo hội Công giáo, 27, 356 và 358.
250 Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1706.
251 x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1705.
252 CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 17: AAS 58 (1966), 1037; Giáo
lý Giáo hội Công giáo, 1730-732.
253 x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor, 34: AAS 85 (1993), 1160-1161;
CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 17: AAS 58 (1966), 1038.
254 x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1733.
255 x. Gregoriô thành Nyssa, De Vita Moysis, II, 2-3: PG 44, 327B-328B: unde fit, ut
nos ipsi patres quodammodo simus nostri… vitii ac virtutis ratione fingentes.
256 x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus, 13: AAS 83 (1991), 809-810.
257 x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1706.
258 Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor, 35: AAS 85 (1993), 1161-1162.
259 Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1740.
260 Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Libertatis Conscientia, 75: AAS 79 (1987), 587.
261 x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1749-1756.
262 Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor, 86: AAS 85 (1993), 1201.
263 x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor, 44, 99: AAS 85 (1993), 1168-
1169, 1210-1211.
264 Ibid., 61: AAS 85 (1993), 1181-1182.
265 x. Ibid., 50: AAS 85 (1993), 1173-1174.
266 Thánh Tôma Aquinô, In Duo Praecepta Caritatis et in Decem Legis Praecepta
Expositio, c. 1: Nunc autem de scientia operandorum intendimus: ad quam tractandan
quadruplex lex invenitur. Prima dicitur lex naturae; et haec nihil aliud est nisi lumen
intellectus insitum nobis a Deo, per quod cognoscimus quid agendum et quid
vitandum. Hoc lumen et hanc legem dedit Deus homini in creatione: Divi Thomae
Aquinatis, Doctoris Angelici, Pouscola Theologica, vol. II: De re spirituali, cura et
studio P. Fr. Raymundi Spiazzi, o.p., Marietti ed., Taurini – Romae 1954, p. 245.
267 x. Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I-II, q. 91, a.2, c:
Ed. Leon. 7, 154: partecipatio legis aeternae in rationali creatura lex naturalis dicitur.
268 x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1955.
269 x. Ibid., 1956.
270 x. Ibid., 1957.
271 Ibid., 1958.
272 CĐ. Vatican I, Dei Filius, c. 2: DS 3005, tr. 588; x. Piô XII, Thông điệp Humani
Generis: AAS 42 (1950), 562.
273 x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1960.
274 x. Thánh Augustinô, Confessions (Tự thú), 2,4,9: PL 32, 678: Furtum certe punit lex
tua, Domine, et lex scripta in cordibus hominium, quam ne ipsa quidem delet iniquitas.
275 x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1959.
276 Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor, 51: AAS 85 (1993), 1175.
277 x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae, 19-20: AAS 87 (1995), 421-424.
278 CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 13: AAS 58 (1966), 1034-1035.
279 x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1741.
280 x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor, 87: AAS 85 (1993), 1201-1203.
281 x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1934.
282 x. CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 29: AAS 58 (1966), 1048-1049.
283 x. Phaolô VI, Tông thư Octogesima Adveniens, 16: AAS 63 (1971), 413.
284 x. Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in Terris, 47-48: AAS 55 (1963), 279-281;
Phaolô VI, Diễn văn tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (04-10-1965), 5: AAS 57
(1965), 881; Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, kỳ họp thứ
50 (05-10-1995), 13: L’Osservatore Romano, bản Anh ngữ, 11-10-1995, tr. 9-10.
285 x. CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 84: AAS 58 (1996), 1107-1108.
286 x. Phaolô VI, Diễn văn tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, 5: AAS 57 (1965), 881;
Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio, 43-44: AAS 59 (1967), 278-279.
287 Gioan Phaolô II, Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Christifideles Laici, 50: AAS 81
(1989), 489.
288 Gioan Phaolô II, Tông thư Mulieris Dignitatem, 11: AAS 80 (1988), 1678.
289 Gioan Phaolô II, Thư gửi các phụ nữ, 8: AAS 87 (1995), 808.
290 Gioan Phaolô II, Kinh Truyền Tin ngày Chúa Nhật (09-07-1995): L’Osservatore
Romano, bản Anh ngữ, 12-07-1995, tr. 1; x. Bộ Giáo lý Đức tin, Thư gửi các giám
mục Giáo hội Công giáo về sự cộng tác giữa người nam và người nữ trong Giáo Hội
và trên thế giới: L’Osservatore Romano, bản Anh ngữ, 11 đến 18-08-2004, tr. 5-8.
291 Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens, 22: AAS 73 (1981), 634.
292 Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens, 22: AAS 73 (1981), 634.
293 Gioan Phaolô II, Thông điệp cho Hội nghị Chuyên đề Quốc tế về Phẩm giá và
Quyền lợi của Người Thiểu năng về Tinh thần, 05-01-2004, 5: L’Osservatore
Romano, bản Anh ngữ, 21-01-2004, tr. 6.
294 x. CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 12: AAS 58 (1996), 1034;
Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1879.
295 x. Piô XII, Thông điệp Truyền thanh ngày 24-12-1942, 6: AAS 35 (1943), 11-12;
Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in Terris: AAS 55 (1963), 264-265.
296 Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1880.
297 Khuynh hướng xã hội tự nhiên của con người cũng cho thấy rõ xã hội không phải
bắt nguồn từ một “khế ước” hay một sự “thoả thuận”, mà bắt nguồn từ bản tính con
người; rồi từ đó người ta mới có thể tạo ra những thoả thuận thành lập các hiệp hội.
Không được quên rằng các ý thức hệ về khế ước xã hội đã dựa trên một quan điểm
nhân học sai lầm; bởi đó những hậu quả rút ra từ các ý thức hệ ấy không thể nào
– và trong thực tế chưa bao giờ – có ích lợi thật sự cho xã hội hay cho con người.
Huấn Quyền đã tuyên bố thẳng thắn những quan điểm ấy đều phi lý và rất tai hại:
x. Lêô XIII, TĐ. Libertas Praestantissimum: Acta Leonis XIII, 8 (1889), 226-227.
298 Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Libertatis Conscientia, 32: AAS 79 (1987), 567.
299 x. CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 25: AAS 58 (1966), 1045-1046.
300 x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, 26: AAS 80 (1988), 544-547;
CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 76: AAS 58 (1966), 1099- 1100.
301 Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1882.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét