Trang

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

IV. Quyền làm việc


     
 Trong đoạn này, Sách TLHT bàn đến quyền làm việc nhìn cách tổng quát cũng như từ phía một vài thành phần xã hội: các phụ nữ, trẻ em, người di cư, nông dân.
      A. Sự cần thiết của công ăn việc làm
            1. Làm việc là một quyền lợi căn bản và một điều thiện đối với con người (số 287). Lao động là một giá trị cho cá nhân, đồng thời cũng là một điều cần thiết để thành lập và nuôi sống gia đình; thủ đắc tài sản; đóng góp vào công ích. Thất nghiệp là một tệ nạn xã hội, cách riêng đối với các thế hệ trẻ.
            2. Làm việc là một điều thiện cho hết mọi người, và phải nằm trong tầm tay của những người có khả năng (số 288). Mục tiêu của hết mọi hệ thống kinh tế nhắm đến công bình và công ích là phải tạo ra công ăn việc làm cho hết mọi người. Đây là một trách nhiệm nặng nề của những người hoặc cơ quan định hướng chính sách lao động và kinh tế trên bình diện quốc gia và quốc tế.
            3. Một hệ thống kinh tế được đánh giá qua những viễn ảnh lao động mà nó có thể cung cấp (số 289). Nạn thất nghiệp là một thảm cảnh đè nặng trên nhiều tầng lớp xã hội.
            4. Tầm quan trọng của hệ thống giáo dục và đào tạo (số 290). Hệ thống giáo dục phải cho phép đối diện với nhu cầu thay đổi việc làm nhiều lần trong suốt thời kỳ lao động. Các bạn trẻ phải học cách đối phó với những rủi ro kèm theo bối cảnh kinh tế hay thay đổi và những diễn biến không thể lường được.
      B. Vai trò của Nhà Nước và xã hội dân sự trong việc cổ động quyền làm việc
            1. Nhà Nước có nhiệm vụ cổ võ những chính sách thúc đẩy lao động (số 291). Tuy nhiên Nhà Nước không có phận sự phải bảo đảm trực tiếp quyền làm việc của các công nhân bằng cách chỉ huy tất cả đời sống kinh tế. Nhà Nước cần nâng đỡ hoạt động của các doanh nghiệp, bằng cách tạo ra những điều kiện cho phép cung cấp việc làm.
            2. Cần cổ võ sự hợp tác hữu hiệu giữa các chính phủ (số 292). Ngày nay các tương quan kinh tế tài chánh và thị trường lao động mang tầm kích hoàn vũ. Vì thế cần phải ký kết những thoả ước và những hành động chung nhằm bảo vệ quyền làm việc và lương bổng. Trong lãnh vực này, các tổ chức quốc tế và nghiệp đoàn có vai trò quan trọng.
            3. Nên khuyến khích các mô hình “tự quản trị” mà thông điệp Rerum novarum đã đề cập để cổ võ quyền làm việc (số 293).
      C. Gia đình và quyền làm việc
      Lao động là nền tảng xây dựng gia đình. Đời sống gia đình và lao động chi phối lẫn nhau bằng nhiều cách: có những thứ lao động gây thiệt hại cho gia đình, và có những khủng hoảng gia đình gây ảnh hưởng tiêu cực cho lao động (số 294). Cần tránh hai điều sai lầm: quan niệm tư riêng về gia đình và quan niệm kinh tế về lao động.
      D. Phụ nữ và lao động (số 295)
      Tất cả mọi hình thức xã hội đều cần đến thiên tài người phụ nữ. Cần làm thế nào để cho các phụ nữ có thể tham gia vào ngành lao động, qua việc đào tạo nghề nghiệp cho họ, cũng như tổ chức công việc cách nào để phụ nữ không mất đi nữ tính và những nghĩa vụ gia đình (cách riêng đối với các bà mẹ).
      E. Lao động của các trẻ em (số 296)
      Lao động của các trẻ em là một điều cưỡng bức. Các trẻ em chỉ được nhận vào giới lao động vào tuổi mà các em đã phát triển các sức lực thể lý, trí tuệ và luân lý (Rerum novarum, số 11). Học thuyết xã hội tố cáo sự tăng gia nạn khai thác lao động trẻ em dưới những điều kiện làm nô lệ.
      F. Di dân và lao động
      1. Hiện tượng người di dân có thể là một nguồn lợi thay vì là một ngăn trở cho sự phát triển (số 297). Hiện tượng di dân càng ngày càng gia tăng: những người gốc từ những miền nghèo khổ muốn đi tìm những điều kiện sinh sống khá hơn. Hiện tượng di dân thường bị coi như là mối đe doạ cho những nước tiên tiến, nhưng trên thực tế, những người di cư đáp ứng cho một một nhu cầu nhân công tại đây.
      2. Những nước đón tiếp cần tạo ra những điều kiện bảo đảm quyền lợi cho người di dân (số 298): quy định những điều kiện nhập cư theo tiêu chuẩn công bình, ngõ hầu có thể tìm công ăn việc làm xứng hợp cho người di dân; tránh việc bóc lột công nhân nước ngoài; tạo cơ hội đoàn tụ gia đình và hòa nhập vào xã hội. Đồng thời, trong tầm mức có thể, các nước tiền tiến cố gắng cải thiện điều kiện sinh sống tại những nước kém mở mang, để người dân địa phương không còn phải di cư nữa.
      G. Nông dân và quyền làm việc
      1. Giới nông dân cần được quan tâm đặc biệt (số 299), vì vai trò xã hội, văn hóa và kinh tế của họ, cũng như vì nhu cầu cần bảo vệ môi trường. Cần phải cải thiện tận gốc để nông nghiệp lấy lại giá trị chính đáng của mình là nền tảng của nền kinh tế.
      2. Tại vài quốc gia, việc tái phân chia ruộng đất trở thành khẩn trương (số 300). Sự phát triển kinh tế đòi hỏi phải xóa bỏ những diện tích rộng lớn không sản xuất. Việc cải cách ruộng đất không phải là một vấn đề chính trị, nhưng còn là một nghĩa vụ luân lý.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét