Trang

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

VII. Những điều mới “Res novae” trong thế giới lao động


     
 Đoạn này nói đến những viễn tượng mới được mở ra do những hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay. Nhiều điều có thể bổ túc thêm ở thông điệp Caritas in veritate.
      A. Một chặng chuyển tiếp lịch sử
      1. Những sự thay đổi trong việc tổ chức việc làm và hiện tượng toàn cầu hoá (số 310).
      -  Vài đặc trưng của toàn cầu hóa: Những hình thức sản xuất mới; Chuyển dời các cơ xưởng sang những khu vực địa lý xa với các cơ quan giữa quyền quyết định điều hành; Sự xa cách giữa nơi sản xuất và nơi tiêu thụ.
      - Những yếu tố thuận lợi cho sự toàn cầu hoá: tốc độ giao lưu trong không gian và thời gian; sự vận chuyển dễ dàng về nhân lực và tài sản.
      - Hậu quả: sự xa cách giữa tư bản với điều kiện xã hội tại nơi sản xuất.
      2. Một trong những đặc trưng quan trọng nhất của việc tổ chức lao động mới mẻ là sự phân tán về thể lý của chu trình sản xuất (số 311). Mục tiêu là đạt được hiệu năng và lợi nhuận cao hơn. Hậu quả là sự chuyển biến các yếu tố không gian - thời gian đưa đến sự thay đổi trong cơ cấu làm việc. Từ đó gây ra nhiều sự thay đổi các cá nhân và cộng đoàn xét về vật chất, văn hoá, các giá trị. Thách đố đặt ra vào thời buổi hôm nay cũng có thể sánh được với thời buổi đầu tiên của cuộc cách mạng kỹ nghệ.
      3. Vì thế cần phải quan tâm đến việc định hướng các hoạt động xã hội và chính trị dựa theo những cách thức mới của việc tổ chức lao động (số 312): thị trường tự do; cổ võ sự cạnh tranh; tăng gia những xí nghiệp chuyên về cung cấp các sản phẩm và dịch vụ.
      3. Hiện đang có sự chuyển dạng từ một nền kinh tế kỹ nghệ sang một nền kinh tế chú trọng đến các dịch vụ và các đổi mới kỹ thuật (số 313). Do những đổi mới kỹ thuật, nảy sinh nhiều nghề mới, và biến đi một số nghề khác. Mô hình kinh tế và xã hội cổ điển gắn với doanh nghiệp lớn; ngày nay ta thấy nảy sinh những nghề nghiệp mới trong lãnh vực các dịch vụ.
      4. Việc tổ chức lao động trước đây mang tính cố định vững bền dựa trên hợp đồng; ngày nay đã nhường chỗ cho những việc làm linh động, ngắn hạn (số 314). Tình trạng gây ra sự mất ổn định về việc làm: nạn thất nghiệp trở thành nếp bởi vì khó lựa chọn việc làm thích hợp; các chế độ bảo hiểm lao động cũng trở thành bấp bênh. Tại các nước đang phát triển, tình trạng này còn trở thành tồi tệ hơn, bởi vì thiếu những hệ thống huấn nghệ, thiếu những luật pháp bảo vệ công nhân, thiếu hệ thống bảo hiểm.
      5. Sự phân tán tiến trình sản xuất tạo ra nhiều xí nghiệp cỡ nhỏ hay cỡ trung bình bên cạnh ngành thủ công nghệ cổ truyền (số 315). Các hoạt động mới phát sinh những công việc tự lập, với những rủi ro của nó. Các xí nghiệp nhỏ tạo ra bầu không khí thân mật hơn, với nhiều sáng kiến hơn; nhưng cũng mang nhiều rủi ro hơn, vì tính cách bấp bênh của nó.
      6. Tại các nước đang phát triển, nảy ra nhiều hoạt động “ngầm” (chui), với nhiều hứa hẹn kinh tế, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề về luân lý và pháp lý (số 316): mức sản xuất thấp, lợi tức cũng thấp, không đủ bảo đảm nhu cầu sinh sống cho gia đình.
      B. Giáo huấn xã hội và thực trạng mới (res novae).
      1. Đứng trước những sự thay đổi này, cần phải tránh sự sai lầm khi cho rằng những thay đổi này xảy đến cách tất định (số 317). Yếu tố quyết định các sự thay đổi này luôn luôn là con người. Con người cần đảm nhận trách nhiệm quản lý các sự canh tân thay đổi hiện nay nhằm để giúp cho sự thăng tiến các cá nhân, gia đình, xã hội và toàn thể gia đình nhân loại. Cần phải dành chỗ ưu tiên cho chiều kích chủ thể của lao động.
      2. Những nhu cầu cụ thể và khẩn trương của con người vượt lên trên những phạm trù thuần tuý kinh tế (số 318). Những lý giải về hoạt động sản xuất theo kiểu máy móc và kinh tế đã bị bắt bẻ do sự phân tích khoa học của các vấn đề gắn liền với lao động. Lao động là một hoạt động tự do và sáng tạo của con người. Các nhu cầu của con người không chỉ giới hạn vào sự chiếm hữu; bản chất và ơn gọi của con người còn duy trì liên hệ với Đấng Siêu Việt.
      3. Trước nguy cơ của sự giày xéo các quyền lợi căn bản, cần phải nghĩ ra những hình thức liên đới mới (số 319): giữa các thể chế quốc gia và quốc tế, giữa nền kinh tế cũ và mới; giữa sự canh tân kỹ thuật và nhu cầu bảo vệ lao động; giữa sự tăng trưởng kinh tế và sự phù hợp với môi trường.
      4. Các nhà khoa học và những nhà trí thức được mời gọi hãy góp phần vào việc tìm ta những giải pháp công bằng (số 320): vạch ra những cơ may và rủi ro trong các sự thay đổi; đề nghị những đường hướng hoạt động để hướng dẫn sự thay đổi theo chiều hướng thuận lợi cho sự phát triển của toàn thể gia đình nhân loại, nhờ những chính sách kinh tế.
      5. Đứng trước tình thế mất quân bình hiện nay, cần tái lập hệ trật các giá trị, đặt phẩm giá của con người lên hàng đầu (số 321). Cần phải xúc tiến tiến trình phát triển tình liên đới ở tầm mức thế giới, như điều kiện sống còn của các dân tộc. Cần phải toàn cầu hóa tình liên đới, làm sao để cho con người trở thành chủ động chứ không phải là công cụ của các sự thay đổi.
      6. Khung cảnh toàn cầu hóa hiện nay mở ra một viễn tượng đề cao khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn thiết lập những tương quan (số 322). Cần khẳng định rằng tiên vàn chiều kích hoàn vũ thuộc về con người, chứ không phải về đồ vật. Kỹ thuật có thể là nguyên nhân, là dụng cụ cho sự toàn cầu hóa, những nguyên nhân đệ nhất phải là tính toàn cầu của gia đình nhân loại. Lao động cũng mang một chiều kích hoàn vũ (toàn cầu). Bên cạnh những khía cạnh tiêu cực của hiện tượng toàn cầu hoá, chúng ta nên nhận ra những khía cạnh tích cực được mở ra, đó là tình liên đới của thế giới lao động. Con người càng ý thức hơn ơn gọi liên đới hoàn vũ của mình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét