Như
đã nói trên đây, các tác giả thường lấy thông điệp“Rerum
Novarum” của đức Lêo XIII (15/5/1891) làm khởi điểm cho GHXH vào thời cận
đại. Bối cảnh lịch sử của nó là cuộc cách
mạng kỹ nghệ tại Âu châu, lôi kéo theo rất nhiều cuộc thay đổi về những
công cụ sản xuất, cũng như những mối tương quan xã hội.
Thực
ra, xã hội Âu châu đã bị lay động từ nhiều thế kỷ trước bởi nhiều nhân tố khác
nhau. Trước tiên là các cuộc cách mạng
chính trị, lật đổ các chế độ chuyên chế, đòi hỏi các quyền tự
do bình đẳng cho hết mọi công dân (điển hình là cách mạng Pháp 1789). Tiếp theo cuộc cách mạng chính trị đòi
hỏi các quyền tự do cho công dân, là thuyết tự
do kinh tế, theo đó trong lãnh vực kinh tế, chính quyền phải để cho sáng
kiến tư nhân hoạt động (laissez faire,
laissez passer) chứ không được can thiệp vào guồng máy sản xuất (từ việc
thiết lập cơ xưởng, cho tới khế ước thuê mướn nhân công, lẫn giá cả).[1] Chủ
thuyết tự do cũng đề cao tư sản như là cái gì thánh-thiêng ngang hàng với tôn
giáo và gia đình. Những tiền đề của chủ thuyết tự do, khi được áp dụng vào cuộc
cách mạng kỹ nghệ, không những đã làm thay đổi các điều kiện làm việc (từ nông
nghiệp sang kỹ nghệ, từ đồng quê lên thành thị), nhưng còn tạo ra những giai
cấp mới trong xã hội: một bên là lớp tư bản và một bên là lớp vô sản. Từ khi mà
mức sống giữa đôi bên càng lúc càng chênh lệch, thì hai bên càng ngày càng trở
nên đối thủ.
Đứng
trước tình trạng bất công mà đa số dân nghèo phải chịu đựng, nhiều học giả tựa
như Robert Owen (1771-1858), Saint
Simon (1760-1825),
Proudhon(1809-1865) và nhất là Karl Marx (1818-1883), cho rằng nguồn gốc của các bất công xã hội là chủ nghĩa tự do
kinh tế. Vì vậy muốn dẹp bỏ những bất công, thì chính quyền cần phải nắm giữ
các bộ máy sản xuất. Marx không chỉ đề ra một lý thuyết nhưng ông còn khơi lên
một hiệp hội quốc tế các công nhân, từ năm 1866 mang tên là Đệ nhất Quốc tế,
nhằm chuẩn bị cho giới lao động chiếm chính quyền, đập tan chế độ tư sản.
GHXH
đã ra đời trong hoàn cảnh đó. Tuy nhiên, cũng cần phải thêm rằng, Giáo hội
không chỉ phải đương đầu với những lý thuyết tự do trong lãnh vực kinh tế. Thực
vậy, từ thời cách mạng chính trị bên Pháp, giữa Giáo hội với chủ nghĩa tự do
còn có những cuộc đụng độ trên nhiều phạm vi khác nữa thí dụ như : về nguồn gốc
quyền bính trong xã hội(từ trời, hay là từ nhân dân?), về tự do lương tâm (ai
muốn theo đạo nào thì theo, hay là phải theo đạo chân thật?). Các Giáo hoàng
Grêgoriô XVI (thông điệp Mirari vos
15/8/1832, Singulari nos 25/7/1834)
và Piô IX (Syllabus: danh mục những
sai lầm của thời đại, 8/12/1864) đã lên án những tiền đề của chủ thuyết tự do
trong lãnh vực chính trị; nhưng thái độ lên án mang tính cách tiêu cực.
Đức
Lêo XIII(1878-1903) bắt đầu tạo ra
một học thuyết có tính cách tích cực và vững chắc về luân lý xã hội, để đáp lại
những học thuyết tự do lẫn học thuyết cộng sản về nguồn gốc quyền bính trong xã
hội, về ý nghĩa của tự do, về mối quan hệ giữa Giáo hội và Nhà nước. Cách
riêng, với thông điệp Rerum Novarum (15/5/1891),
đức Lêo XIII giải quyết vấn đề do cuộc kỹ nghệ hóa đã đặt ra, đó là: một thiểu
số người giàu đã áp đặt ách nô lệ lên đại đa số người vô sản. Có thể coi đây
như là khởi điểm của học thuyết xã hội của Giáo hội, tuy phải nhìn nhận rằng
các văn kiện chính thức của Giáo hội đã được chuẩn bị trước đó nhờ những nhà
thần học hoặc các giáo dân đi tiên phong[2].
Từ
thông điệp Rerum Novarum trở đi, học
thuyết xã hội của Giáo hội được bổ túc dần dần, do những vấn đề được gợi lên
tùy thời thế và cũng do những cuộc tìm hiểu và suy tư càng ngày càng chín chắn
hơn. Khi trình bày lịch sử GHXH, sách TLHT (số 87-104) chỉ theo dõi thứ tự niên
biểu của các giáo hoàng chứ không phân
chia thành giai đoạn tiến triển của học thuyết. Tuy nhiên, cũng có tác giả[3]
phân chia các giai đoạn dựa theo lịch sử Giáo hội trong thế kỷ XX, với mốc điểm
là công đồng Vaticanô II; từ đó các văn kiện được phân thành ba nhóm:
+
Trước Vaticanô II: Lêô XIII, Piô XI, Piô XII
+
Công đồng Vaticanô II: Gioan XXIII, công đồng, Phaolô VI
+
Sau công đồng: Gioan Phaolô II, Bênêđictô XVI.
Khi
đối chiếu sự tiến triển của đạo lý với những biến chuyển của thời cuộc thế
giới, Alfonso Cuadrón phân chia làm 6 giai đoạn:[4] 1/ Thời phác họa những vấn
đề(1891-1931). 2/ Thời khủng hoảng
của các chế độ kinh tế(1931-1939). 3/
Thời thế chiến và chiến tranh lạnh(1939-1958).
4/ Thời lạc quan của thập niên 60(1958-1969).
5/ Thời khủng hoảng trong Giáo hội và xã hội(1969-1989).
6/ Từ 1989, với sự sụp đổ của bức tường Bá linh. Chúng tôi cũng dựa theo tác giả này để theo
dõi sự tiến triển của GHXH, với một vài sửa đổi nho nhỏ nhằm nêu bật liên kết
với các triều đại giáo hoàng hơn.
A. Thời phác họa vấn đề:
từ Rerum novarum (1881) đến cuộc
khủng hoảng 1929.
Trước
những bất công gây cho giới thợ thuyền do chủ nghĩa tự do kinh tế gây ra,
phương thức duy nhất để chữa trị xem ra là chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên đức Lêô
XIII đã chống lại chủ trương ấy. Ngài bảo vệ tư hữu như là nền tảng của trật tự
xã hội, chống lại sự tranh đấu giai cấp, và cổ võ sự hoà đồng của tất cả mọi
nhóm. Mặt khác, ngài cũng đả kích chủ nghĩa tự do vì đã gây ra nhiều bất công
xã hội, cách riêng bởi vì họ coi tư hữu như là một quyền lợi tuyệt đối và hạn
chế sự can thiệp của chính quyền. Thông điệp cũng bảo vệ quyền lập hội, cũng
như quyền của Giáo hội được góp phần vào việc kiến thiết xã hội.
Không
phải tất cả mọi giới công giáo đều hoan hỉ đón nhận thông điệp“Rerum Novarum”. Một nhóm trưởng giả đã
trách đức Lêo XIII là đã vượt quá thẩm quyền của mình khi can thiệp vào những
vấn đề xã hội thay vì chú trọng đến chuyện cứu rỗi các linh hồn. Dù sao, thông
điệp ấy đã thức tỉnh lương tâm của nhiều tín hữu về vai trò của họ trong xã
hội. Vào những thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, người ta nhận thấy rất nhiều
sáng kiến đã được xúc tiến về phía các chủ nhân cũng như các công nhân Kitô
giáo, muốn đem ra áp dụng đạo lý của Hội thánh. Chính trong khi thực hành,
người ta mới thấy nảy ra những vấn đề mới mà thông điệp chưa nghĩ tới, nhưng
cũng nhờ vậy mà GHXH dần dần được bổ túc và hoàn chỉnh. Vài thí dụ : người công
giáo có nên thành lập một đảng chính trị để tranh đấu cho một chính sách hòa
hợp với luân lý hay không ? Các công nhân công giáo nên lập ra nghiệp đoàn
riêng hay là nên gia nhập những nghiệp đoàn khác tuy không đồng tín ngưỡng ?
Riêng về quyền lợi của các công nhân, các nhà thần học còn tranh luận xem vấn
đề phụ cấp dành cho gia đình thuộc về công bằng hay thuộc đức bác ái ?
B. Thời khủng hoảng của
các chế độ (1931-1939)
Thập
niên 30 của thế kỷ XX được đánh dấu bằng nhiều khủng hoảng. Chế độ tư bản tự do gặp phải cơn khủng hoảng,
điển hình với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Nữu ước (24/10/1929). Chế độ
xã hội, sau cuộc cách mạng 1917 bên
Nga, cũng bị rạn nứt giữa khuynh hướng đệ Nhị và đệ Tam quốc tế. Đang khi đó
tại Đức và Ý nảy ra chủ nghĩa quốc xã
(Adolf Hitler) và phát xít (Benito
Mussolini).
Thông
điệp Quadragesimo anno của đức Piô XI
(15/5/1931), kỷ niệm 40 năm thông điệp Rerum Novarum, đã vạch ra những sai lầm
của ba chủ nghĩa nói trên:
1.
Chủ nghĩa tư bản bị lên án là bất công bởi vì hoàn toàn dựa trên định luật cung
cầu; mặc dù đề cao tự do nhưng trên thực tế nó áp đặt sự thống trị của thiểu số
có tiền lực.
2.
Chủ nghĩa cộng sản bị kết án vì quan niệm đấu tranh giai cấp, gây ra căm thù
trong xã hội.
3.
Chủ nghĩa độc tài phát xít bị công kích vì dành cho Nhà nước quá nhiều can
thiệp vào đời sống xã hội đến nỗi bóp nghẹt những sáng kiến tư nhân. Nên biết
là đức Pio XI đã dành ba thông điệp cho ba chế độ độc tài: Non abbiamo bisogno (29/6/1931) dành cho phát xít Ý; Mit brennender Sorge (14/3/1937) hướng
tới quốc xã Đức; bốn ngày sau đó (19/3/1937), thông điệp
Divini Redemptoris ra đời bàn về chế độ cộng sản. Đức Piô XI đã mạnh dạn tố
cáo tất cả những chủ nghĩa nào, - dù hữu phái hay tả phái, dù thuộc khuynh
hướng tự do hay xã hội-, khi chúng đe dọa sự tự do đích thực của con người.
Thông
điệp Quadragesimo anno dành phần thứ
hai để trình bày quyền sở hữu, tư bàn và lao động, tiền lương công bằng. Thông
điệp cũng bàn vai trò của Nhà Nước, và phát biểu nguyên tắc hỗ trợ, để
chống lại các chủ nghĩa toàn chế. Trong phần thứ ba, thông điệp đề nghị những
hệ thống trung gian giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
C.
Thời chiến tranh thế giới và chiến tranh
lạnh (1939-58)
Triều
đại của Đức Piô XII trùng với thời
chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh của thế giới. Chiến tranh nóng khởi sự với
thế chiến thứ hai (1/9/1939). Khi thế chiến vừa kết liễu thì cuộc chiến tranh
lạnh bắt đầu giữa hai khối Nga-Mỹ: châu Âu bị phân chia thành hai vùng
Đông-Tây; sự phân chia cũng xảy ra tại châu Á (Triều Tiên, Việt Nam). Thêm vào
đó, ngay tại nước Nga, người ta cũng đã chứng kiến cuộc hạ bệ Staline năm 1956
đưa tới việc lên án vào năm 1961, dưới thời Kruschov, tuy ông này cũng làm thế
giới đứng tim với cuộc khủng hoảng Cuba năm 1962, sau khi đã xây bức tường Bá
linh năm 1961.
Đức
Piô XII không xuất bản một thông điệp nào về vấn đề xã hội, nhưng Ngài đã viết
hoặc tuyên bố trên đài phát thanh nhiều bài diễn văn bàn về hòa bình trên thế
giới, đặc biệt là: In questo giorno (1939),
về hoà bình được xây dựng trên những yêu sách chính đáng của các dân tộc; Grazie
(1940) về những nền tảng của một trật tự quốc tế mới; Nell’alba (1941) xác định những tiền đề của trật tự quốc tế; La
solennità (1941) về vấn đề xã hội nhân kỷ niệm 50 năm thông điệp “Rerum
novarum”; Con sempre (1942) về trật
tự nội bộ trong các quốc gia; Begninitas
et humanitas (1944) đề nghị chế độ dân chủ như là chính thể thích hợp nhất
cho các quốc gia.
D. Thời lạc quan của thập niên 60
(1958-1969)
Thập
niên 60 được đánh dấu với những nét lạc quan về chính trị, kinh tế xã hội. Mặc
dù chiến tranh lạnh giữa hai khối Nga Mỹ còn tiếp diễn, nhưng lãnh tụ của hai
phe đã có dịp gặp gỡ nhau để thảo luận về chính trị quốc tế. Mức sống của dân
chúng tại Âu Mỹ đã được nâng cao nhờ sự phát triển kinh tế. Các công nhân và
nghiệp đoàn đã có tiếng nói trong sinh hoạt chính trị và xã hội. Thập niên 60
cũng còn được đánh dấu với việc giành độc lập của các nước Á-Phi, làm thay đổi
mối bang giao giữa các quốc gia, dần dần đưa tới những khối trong cộng đồng
chính trị thế giới.
1/
Chân phước Gioan XXIII (1958-1963)
Về
phía Giáo hội, giai đoạn này trùng hợp với triều đại của đức Gioan XXIII. Ngài
đã để lại hai thông điệp xã hội : Mater
et Magistra (15/5/1961) và Pacem in
terris (14/4/1963).
-
Thông điệp thứ nhất kỷ niệm 70 năm thông điệp“Rerum Novarum”, đặt lại những vấn đề quyền tư hữu, lương bổng,
công bằng xã hội, các cơ cấu kinh tế trong viễn tượng mới của thế giới. Thông
điệp phân tích những chênh lệch trong kinh tế thế giới (nông nghiệp, kỹ nghệ,
các dịch vụ, các nước kém phát triển) và mời gọi sự hợp tác toàn cầu.
Thông
điệp Mater et Magistra kêu gọi giáo
dân hãy phổ biến GHXH, cũng như nhắc đến phương pháp “xem - xét - làm”.
-
Thông điệp thứ hai phát biểu quan điểm của Giáo hội trước các vấn đề chính trị
quốc gia và quốc tế. Thông điệp này gửi đến
“tất cả mọi người thiện chí”, chứ không chỉ giới hạn vào các phần tử của
Giáo hội. ĐTC muốn xây dựng trật tự thế giới dựa trên hoà bình và sự tôn trọng
các quyền lợi của con người. Thông điệp bàn đến bản chất của quyền bính trong
xã hội, các chính thể, công ích, cũng như một cơ quan quản trị quốc tế.
Thông
điệp Pacem in terris nói đến bốn cột
trụ của Hoà bình: chân lý, công bằng, yêu thương và tự do.
2/
Công đồng Vaticanô II (1962-1965)
Công
đồng được đức Gioan XXIII triệu tập để canh tân Giáo hội. Công đồng bàn về Giáo
hội, đối nội cũng như đối ngoại. Đối nội, trong hiến chế Lumen gentium, công đồng ý thức rõ rệt hơn về bản chất và sứ mạng
của mình giữa lòng nhân loại; Giáo hội là Dân Thiên Chúa, gồm bởi nhiều thành
phần với những chức năng chuyên biệt.
Đối
ngoại, công đồng bàn về tương quan của Giáo hội đối với thế giới trong hiến chế
Gaudium et spes (7/12/1965). Công
đồng bàn về nhiều lãnh vực khác nhau: gia đình, văn hóa, kinh tế, chính trị,
hoà bình. Xét về phương pháp, văn kiện này đi từ nhận định thực tại, rồi phân
tích dưới ánh sáng mạc khải. Phương pháp tương tự cũng được sử dụng trong tuyên
ngôn Dignitatis humanae (7/12/1965)
bàn về quyền tự do tín ngưỡng được nhìn dưới mối tương quan giữa công dân và
chính quyền.
E. Thời khủng hoảng trong xã
hội và Giáo hội
(1966-1978)
Vào
năm 1969, con người đã đặt chân lên cung trăng. Nhưng thay vì mở màn cho những
hy vọng vô bờ bến của nhân loại, thì nó lại đánh dấu một giai đoạn khủng hoảng.
Trước đó một năm (1968), những cuộc biểu tình của sinh viên tại Paris và các
thủ đô lớn ở Âu Mỹ đã cho thấy rằng thế hệ trẻ không hài lòng với những cơ cấu
xã hội cổ truyền, và họ muốn phá đổ tất cả. Sự phát triển kinh tế bị đình trệ
lại với cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973. Hòa bình thế giới bị thương tổn
không những do những cuộc chiến tranh sôi bỏng tại Việt nam, nhưng còn có những
cuộc chiến tranh du kích tại Nam Mỹ nhằm đòi hỏi một trật tự xã hội công bình
hơn.
Trong
nội bộ Giáo hội, luồng gió mới của công đồng Vaticano II đôi khi cũng gây ra
những bão tố, điển hình là phản ứng tiếp theo thông điệp“Humanae vitae” của đức Phaolô VI (25/7/1968).
Trong
giai đoạn này, đừng kể những văn kiện liên quan tới việc canh tân Giáo hội sau
công đồng, chúng ta có thể ghi nhận rất nhiều văn kiện về học thuyết xã hội của
Giáo hội.
1/
Đức Phaolô VI đã để lại một văn kiện quan trọng cho GHXH, đó là thông điệp Populorum Progressio (26/3/1966) bàn về
sự phát triển các dân tộc. Thông điệp này không kỷ niệm Rerum novarum cho bằng nới rộng hiến chế Gaudium et spes. Sự phát
triển không thể chỉ giới hạn vào lãnh vực kinh tế, nhưng cần được mở rộng tới
sự phát triển toàn diện con người. Mặt khác, sự phát triển cũng đòi hỏi tình
liên đới giữa các nước giàu và các nước nghèo; vì thế vấn đề quyền tư hữu cần
được lồng trong bối cảnh nhằm phục vụ lợi ích của toàn thể nhân loại. Như vậy
điểm mới mẻ của thông điệp là đề tài “phát triển” (phát triển toàn diện con
người) nhìn ở tầm mức hoàn vũ (phát triển của toàn thể nhân loại): sự phát
triển là danh xưng mới của hòa bình[5].
*
Tuy không được xếp vào số huấn giáo về xã hội, nhưng thông điệp Humanae vitae (25/7/1968) đáng được quy
chiếu khi bàn về đời sống gia đình, nền tảng của xã hội.
2/
Để kỷ niệm 80 năm thông điệp Rerum Novarum, Đức Phaolo VI đã viết tông thư Octogesima Adveniens (15/5/1971), trình bày lập trường của Giáo hội trước những
vấn đề mới (hiện tượng đô thị hóa, truyền thông xã hội, phong trào phụ nữ, môi
sinh), đặc biệt là sự tham gia của các tín hữu vào các phong trào xã hội. Ngài đã phân tích hai “ý thức hệ” (tự do và mác xít), khác
với ba “phong trào lịch sử” (chủ nghĩa xã hội, cộng sản, tư bản). Từ đó, tông
thư chấp nhận rằng do cùng một đức tin thúc đẩy, các tín hữu có thể chọn lựa
những phương thức khác nhau để hành động.
3/ Thượng hội đồng các Giám mục họp năm 1971 đã
dành một văn kiện bàn về “Sự Công bằng trên thế giới”. Thượng hội đồng họp năm
1974, được đức Phaolô VI đúc kết trong tông huấn “Rao truyền Phúc âm” (Evangelii Nuntiandi 8/12/1975), đã dành nhiều
khoản (số 29-39) để nói về mối liên hệ giữa việc rao truyền Phúc âm với sự
thăng tiến con người.
F. Thời xác định căn cước GHXH trước một
trật tự thế giới mới
Với sự sụp đổ của bức tường Bá linh ngày
9/11/1989, một trang sử được lật qua với những ảnh hưởng không riêng gì cho
chính trị tại Âu châu mà còn cho trật tự của toàn thế giới. Bản đồ của nhiều
quốc gia đã được vẽ lại. Người ta không còn lo sợ sự đụng độ giữa hai siêu
cường Nga-Mỹ nữa, (điển hình là nhân chiến tranh vùng vịnh Ba-tư). Tuy nhiên,
những cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội vẫn còn trờ trờ ở đó: nạn thất nghiệp, nợ
quốc tế, vv; đó là chưa kể cuộc khủng hoảng của các giá trị luân lý tinh thần.
Mặt khác, người ta cũng lo sợ những phong trào khủng bố của những nhóm quá
khích sử dụng chiêu bài tôn giáo.
Trùng
với giai đoạn này là triều đại của đức Gioan Phaolô II, một công dân Ba-lan đã
từng sống dưới chế độ cộng sản cũng như kinh nghiệm đời công nhân. Những thông
điệp xã hội vào thời này xác định rõ hơn căn tính của GHXH trong bối cảnh của
một trật tự thế giới mới.
Đức
Gioan Phaolo II khai trương giáo huấn xã hội của triều đại với thông điệp Laborem exercens (14/9/1981) bàn về lao
động, vào dịp kỷ niệm 90 năm thông điệp Rerum Novarum. Tiếp theo là thông điệp Sollicitudo rei socialis (30/12/1987)
kỷ niệm 20 năm thông điệp Populorum
Progressio. Những dịp kỷ niệm không chỉ là để lặp lại chuyện cũ nhưng là để
bàn đến những vấn đề mà thời đại đặt ra. Thí dụ vào thời đại hôm nay, vấn đề
lao động lôi kéo theo vấn đề nghiệp đoàn, lãng công, thất nghiệp, di dân, phụ
nữ. Sự phát triển các dân tộc bị đình trệ vì nợ của các nước nghèo: thế giới
không phải chỉ chia thành hai khối tư bản và xã hội, nhưng còn thêm những nước
thuộc thế giới thứ ba và thứ bốn.
Đức
Gioan Phaolô II xác định rõ hơn bản chất của GHXH: đây là một ngành thuộc thần
học luân lý trong thông điệp Sollicitudo
rei socialis. Nguyên tắc liên đới cũng được đề cập nhiều lần.
Bên
cạnh giáo huấn của ĐTC, còn phải kể thêm hai huấn thị của Bộ Giáo Lý đức tin về
thần học giải phóng (6/8/1984 và 22/3/1986), một huấn thị của Bộ Giáo dục công
giáo về việc dạy học thuyết xã hội trong các chủng viện (30/12/1988), đó là
chưa kể các văn kiện của Hội đồng Tòa thánh về“Công lý Hòa bình” và của các Hội đồng Giám mục.
Thông
điệp Centesimus Annus (1/5/1991)
không nhằm kỷ niệm 100 năm thông điệp Rerum Novarum cho bằng phác họa hướng đi
cho tương lai. Thông điệp ôn lại thái độ của Giáo hội đối với hai chế độ
mác-xít và tư bản, cho thấy những khuyết điểm của mỗi chế độ, chung quy ở chỗ
quan điểm lệch lạc về phẩm giá của con người. Khuyết điểm chính của thuyết
mác-xít là cắt đứt con người khỏi chiều kích siêu việt, cũng như chủ trương đấu
tranh giai cấp. Khuyết điểm của chủ nghĩa tư bản là đề cao tự do cá nhân mà
không đếm xỉa đến tình liên đới xã hội, hoặc đề cao một thứ tự do quá khích
tách rời khỏi mọi giá trị luân lý.
Đề
tài GHXH được đưa vào Sách Giáo lý Hội
thánh Công giáo (11/10/1992), trong phần luân lý tổng quát cũng như luân lý
chuyên biệt (xc Phụ trương II).
Trước
khi bước sang thiên niên kỷ mới, đức Gioan Phaolô II đã triệu tập những khóa
họp đặc biệt Thượng hội đồng giám mục, để nghiên cứu tình hình tôn giáo, chính
trị xã hội tại các lục địa. Chính trong khoá họp dành cho châu Mỹ, các nghị phụ
đề nghị soạn thảo một bản tóm lược Giáo huấn xã hội[6] . Công tác này được trao cho
Hội đồng Tòa thánh về Công lý và Hoà bình, và tác phẩm được xuất bản năm 2004.
Những
văn kiện dưới thời đức Gioan Phaolô II đã xác định rõ bản chất thần học của
Giáo huấn xã hội công giáo. Cũng trong đường hướng đó, các thông điệp của đức
Bênêđictô XVI (Deus caritas est, Spe
salvi, Caritas in veritate) muốn liên kết hoạt động xã hội của Giáo hội với
nguồn mạch phát xuất là tình yêu Thiên Chúa. Đặc biệt thông điệp Caritas in veritate, được ban hành ngày
29/6/2009 để kỷ niệm 40 năm thông điệp Populorum
progressio, nhấn mạnh đến chiều kích tôn giáo và luân lý của công cuộc phát
triển con người.
Kết luận
Sau
khi nhìn lại tiến trình hình thành GHXH, chúng ta có thể rút ra vài kết luận
như sau.
1.
GHXH đã bắt nguồn từ thời xa xưa (từ Tân ước, các giáo phụ), nhưng được phát
triển mạnh mẽ vào thế kỷ XX. GHXH biểu lộ đặc tính lữ hành của Giáo hội. Giáo
hội đồng hành với nhân loại trong dòng lịch sử, chia sẻ những vui mừng và hy
vọng, buồn sầu và lo âu với mọi người. GHXH được phát biểu như là những định
hướng cho cuộc hành trình, cách riêng trước những thách đố mới. Hiểu như vậy,
GHXH chưa hoàn thành, và cần được cập nhật liên lỉ ngõ hầu đáp ứng với những
thách đố mới. Một thí dụ cụ thể, thông điệp cuối cùng về xã hội của chân phúc
Gioan Phaolô II là thông điệp Centesimus
annus (1991) vừa kỷ niệm 100 năm thông điệp Rerum novarum, vừa suy tư về những thách đố mới được đặt ra sau sự
sụp đổ của các chế độ Cộng sản ở châu Âu. Vào năm 2007, nhân dịp kỷ niệm 40 năm
thông điệp Populorum progresio, đức
thánh cha Bênêđictô XVI suy tư về những vấn đề hiện đại được đặt ra do cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới. Trong quá khứ, các đức giáo hoàng phải đương đầu
với hai ý thức hệ: tư bản và cộng sản.
Vào thời nay, hai ý thức hệ đã mất nhiều ảnh hưởng; nhưng nảy lên các
thách đố mới là: chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa tiêu thụ.
2.
Trong những nhân tố của sự tiến triển của GLXH phải kể đến yếu tố “lịch sử”,
nghĩa là những biến đổi kinh tế, chính trị, xã hội trong hai thế kỷ XIX-XX: đó là
những nhân tố bên ngoài. Chúng ta cũng cần thêm một nhân tố bên trong
nữa, đó là sự tiến triển của Giáo hội trong nhận thức về bản chất của mình,
cách riêng từ công đồng Vaticanô II. Trước đây, Giáo hội thường được quan niệm
như một “xã hội toàn vẹn” (societas
perfecta) với các guồng máy thể chế tương tự như một quốc gia và đôi khi ra
như tranh đua với các quốc gia. Công đồng Vaticanô II nhấn mạnh đến bản chất
Giáo hội như là “dấu chỉ và dụng cụ của ơn cứu độ”, về cơ cấu như là Dân Thiên
Chúa dưới sự lãnh đạo của hàng giám mục, về sứ mạng như là mang Tin mừng cho
thế giới và đồng thời cũng lãnh nhận nhiều giá trị từ thế giới. Những quan điểm
này ảnh hưởng đến phương pháp xây dựng GHXH. GHXH không phải là công tác dành
riêng cho Giáo hoàng và các giám mục. Các giáo dân giữ vai trò then chốt trong
việc xây dựng và áp dụng “Tin mừng về xã hội”.
3.
GHXH mang tính cách phổ quát, đối diện với những vấn đề mang tính cách toàn
cầu. Viễn ảnh này rất cần thiết trong thời đại toàn-cầu-hóa ngày nay. Tuy
nhiên, mỗi giáo hội địa phương cần tìm cách để áp dụng giáo huấn này vào hoàn
cảnh cụ thể của mình. Việc áp dụng này không những giúp cho GHXH được diễn ra
thực tại, nhưng còn góp phần cho nó tiến triển, qua sự đóng góp bằng chính kinh
nghiệm sống.
[1] Vài học giả tiêu biểu : Adam Smith
(1723-1790); David Ricardo (1772-1823).
[2] Chẳng hạn như : các chân phước Antoine-Frédéric Ozanam y Adolf
Kolping, các hồng y Manning, Gibbons và Mermillod , giám mục Von Ketteler, linh
mục Taparelli d'Azeglio SJ, các giáo dân Léon Harmel, Albert de Mun và René de la Tour du Pin.
[3] Escuela de Agentes de Pastoral Diocesis de Plasencia, Formacion basica. Doctrina Social de la
Iglesia, 2009.
[4] AA.VV. Manual de doctrina social
de la Iglesia, obra
coordinada por Alfonso A. Cuadron, BAC, Madrid 1993, pp.814.
[5] Đức Phaolô VI đã thành lập ngày Hòa bình thế giới, được cử hành hằng
năm vào ngày 1/1, kể từ năm 1968.
[6] Xc. Tông huấn hậu thượng hội đồng Eccléia
in America số 54.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét