Trang

Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012

III. HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI TRONG THỜI ĐẠI CHÚNG TA: CÁC GHI CHÚ LỊCH SỬ



a. Khởi đầu một lộ trình mới

87. Thuật ngữ “học thuyết xã hội” đến từ Đức Giáo hoàng Piô XI139 và chỉ “tập hợp” giáo lý liên quan đến các vấn đề xã hội; giáo huấn này khởi sự với Thông điệp Rerum Novarum (Các sự việc mới)140 của Đức Giáo hoàng Lêô XIII, được triển khai trong Giáo Hội thông qua Huấn Quyền của các Đức Giáo hoàng và các Giám mục hiệp thông với các ngài141. Chắc hẳn Giáo Hội quan tâm tới các vấn đề xã hội không phải chỉ với văn kiện ấy, vì Giáo Hội không ngừng quan tâm tới xã hội. Nhưng Thông điệp Rerum Novarum đã đánh dấu sự khởi đầu của một lộ trình mới. Dù gắn kết với một truyền thống hàng mấy trăm năm, Thông điệp ấy vẫn báo hiệu một sự khởi đầu mới và một sự triển khai đặc biệt giáo huấn Giáo Hội trong lĩnh vực xã hội142.
Trong lúc không ngừng quan tâm tới con người sống trong xã hội, Giáo Hội đã tích luỹ được cả một kho tàng giáo lý phong phú. Kho tàng này có gốc rễ trong Thánh Kinh, nhất là trong các sách Tin Mừng và các bút tích của các Tông đồ, được thành hình và hoàn chỉnh bắt đầu từ các Giáo phụ và các vị Tiến sĩ thời Trung Cổ, rồi làm thành một học thuyết, mà dù trong đó không có những lời tuyên bố minh bạch và trực tiếp của Huấn Quyền, Giáo Hội vẫn dần dần nhận ra thẩm quyền chuyên môn của mình.
88Vào thế kỷ XIX, các biến cố mang bản chất kinh tế đã tạo ra một tác động bi đát trên xã hội, chính trị và văn hoá. Các biến cố có liên quan với cuộc Cách mạng Công nghiệp đã làm thay đổi sâu xa những cơ cấu xã hội có từ hàng mấy thế kỷ, đặt ra những vấn đề công bằng rất nghiêm trọng, trong đó vấn đề xã hội đầu tiên có tầm cỡ là vấn đề lao động, được cấp tốc nêu lên do cuộc xung đột giữa phe tư bản và giới lao động. Trong bối cảnh ấy, Giáo Hội cảm thấy cần phải can thiệp theo một cách thức mới: những “sự việc mới” (res novae) do các biến cố ấy mang đến giống như một thách đố cho giáo huấn của Giáo Hội, bắt Giáo Hội phải có sự quan tâm mục vụ đặc biệt tới đông đảo quần chúng. Cần phải có một sự phân định mới về tình hình, một sự phân định có thể tìm ra những giải pháp thích hợp cho các vấn đề lạ lẫm, chưa một lần khám phá.
b. Từ Thông điệp Rerum Novarum đến hôm nay
89Để trả lời cho vấn nạn xã hội nghiêm trọng đầu tiên, Đức Giáo hoàng Lêô XIII đã ban hành Thông điệp xã hội đầu tiên là “Rerum Novarum143. Thông điệp này xem xét tình trạng của các người lao động ăn lương, một tình trạng hết sức đáng buồn đối với các người lao động trong ngành công nghiệp đang vất vả trong cảnh cùng khốn phi nhân. Thông điệp đã đề cập đến vấn đề lao động về các khía cạnh khác nhau. Vấn đề này đã được khảo sát qua tất cả các biểu hiện của nó trên bình diện chính trị và xã hội, nhờ đó ta có thể đưa ra sự đánh giá đúng đắn dựa vào các nguyên tắc giáo lý, căn cứ trên mạc khải, luật tự nhiên và luân lý.
Thông điệp Rerum Novarum liệt kê các sai lầm, mà từ đó phát sinh biết bao tệ nạn xã hội; Thông điệp không thừa nhận chủ nghĩa cực quyền, phủ định quyền tư hữu và ngôi vị cá thể của con người, không lấy đó làm phương dược điều trị, rồi trình bày một cách chính xác và theo ngôn ngữ đương thời “học thuyết Công giáo về lao động, về quyền tư hữu, về nguyên tắc hợp tác thay vì lấy việc đấu tranh bạo động làm phương thế căn bản để thay đổi xã hội, về quyền lợi của những người yếu kém, về phẩm giá của người nghèo và nghĩa vụ của người giàu, về việc đức ái kiện toàn công lý, quyền thành lập các hiệp hội ngành nghề”144.
Thông điệp trở thành văn kiện thôi thúc các Kitô hữu hoạt động trong lĩnh vực xã hội và trở thành điểm tham chiếu cho các Kitô hữu khi hoạt động145. Chủ đề chính của Thông điệp là làm sao sắp xếp trật tự đúng đắn cho xã hội, và muốn thế cần phải xác định các tiêu chuẩn phê phán để giúp đánh giá các hệ thống chính trị - xã hội hiện hành và để đề ra các hướng hành động hầu biến đổi các hệ thống ấy cách thích đáng.
90. Thông điệp đề cập tới vấn đề lao động bằng cách sử dụng một phương pháp luận, mà về sau sẽ trở thành một “định thức vững bền146 để sau này triển khai thành học thuyết xã hội của Giáo Hội. Những nguyên tắc do Đức Giáo hoàng Lêô XIII đưa ra sẽ được lấy lại và nghiên cứu sâu xa hơn trong các thông điệp xã hội tiếp theo sau này. Có thể coi toàn bộ học thuyết xã hội của Giáo Hội như một hành động cập nhật hoá, một sự phân tích sâu sắc hơn và như môt sự triển khai rộng rãi hơn phần cốt lõi ban đầu là các nguyên tắc đã được trình bày trong Rerum Novarum. Nhờ bản văn dũng cảm và có tầm nhìn xa trông rộng, Đức Giáo hoàng Lêô XIII “đã đem lại cho Giáo Hội ‘địa vị công dân’ đích thực, giữa muôn vàn thực tế thay đổi của đời sống chung”147, cũng như đã “đưa vào được và đã ra một bản tuyên bố sắc sảo”148 mà sau này sẽ trở thành “một yếu tố thường xuyên trong giáo huấn xã hội của Giáo Hội”149. Đức Giáo hoàng còn khẳng định “chỉ có thể giải quyết các vấn đề xã hội nghiêm trọng bằng sự hợp tác giữa tất cả các thế lực”150; ngài còn nói thêm rằng “về phần Giáo Hội, sự hợp tác ấy sẽ không bao giờ thiếu”151.
91. Vào đầu thập niên 1930, tiếp theo sau cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng vào năm 1929, Đức Giáo hoàng Piô XI ban hành Thông điệp Quadragesimo Anno (Năm thứ 40)152, kỷ niệm năm thứ 40 Thông điệp Rerum Novarum. Ngài đọc lại quá khứ dựa vào tình hình kinh tế và xã hội lúc bấy giờ, trong đó, bên cạnh những hậu quả của việc công nghiệp hoá còn có sự kiện các tập thể tài chính đang mở rộng ảnh hưởng, cả trên bình diện quốc gia lẫn quốc tế. Đó còn là thời kỳ hậu chiến, trong đó các chính thể độc tài đang ra sức khống chế châu Âu dù cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng trở nên quyết liệt. Thông điệp cảnh cáo mọi người về tình trạng thiếu tôn trọng tự do trong việc thành lập các hiệp hội và nhấn mạnh tới nguyên tắc liên đới và hợp tác để khắc phục các mâu thuẫn xã hội. Các quan hệ giữa giới tư bản và giới lao động phải có tính cách hợp tác153.
Thông điệp Quadragesimo Anno tái xác nhận nguyên tắc lương bổng phải cân xứng không chỉ với các nhu cầu của người lao động mà còn với các nhu cầu của gia đình người lao động. Trong các mối quan hệ với khu vực tư nhân, Nhà Nước cần phải áp dụng nguyên tắc bổ trợ, một nguyên tắc sẽ trở thành nhân tố thường xuyên có mặt trong giáo huấn xã hội Công giáo. Thông điệp bác bỏ chủ nghĩa tự do, được quan niệm như một chủ nghĩa chủ trương cạnh tranh vô giới hạn giữa các lực lượng kinh tế, và tái khẳng định giá trị của tư hữu, nhưng không quên vai trò xã hội của tư hữu. Trong một xã hội đang cần được tái thiết từ các nền tảng kinh tế, một xã hội tự nó đã hoàn toàn trở thành “vấn đề” cần phải giải quyết, “Đức Piô XI cảm thấy mình có nghĩa vụ và trách nhiệm phải đẩy mạnh cho người ta ý thức hơn, giải thích chính xác hơn và khẩn trương áp dụng luật luân lý liên quan tới các quan hệ nhân bản… nhằm khắc phục sự xung đột giữa các giai cấp và tiến tới một trật tự xã hội mới dựa trên công bằng và bác ái”154
92Đức Giáo hoàng Piô XI không quên lên tiếng phản đối những chế độ độc tài đang tìm cách thống trị châu Âu dưới triều đại giáo hoàng của ngài. Ngay từ ngày 29-6-1931, ngài đã phản đối sự lạm quyền của chế độ độc tài phátxít ở Italia qua Thông điệp Non Abbiamo Bisogno155. Ngài còn ban hành Thông điệp Mit Brennender Sorge đề cập đến tình hình Giáo hội Công giáo dưới thời Đức Quốc Xã, ngày 14-3-1937156. Văn kiện này đã được đọc trên giảng đài các nhà thờ Công giáo Đức, sau một thời gian được phân phát hết sức kín đáo. Thông điệp ra đời sau những năm chính phủ lạm quyền và bạo lực. Thông điệp này đã được chính các giám mục Đức yêu cầu Đức Giáo hoàng Piô XI ban hành, sau khi Đức Quốc Xã thi hành những biện pháp mang tính áp bức và cưỡng ép nhiều hơn nữa vào năm 1936, nhất là đối với thanh niên, bắt buộc họ tham gia làm hội viên Phong trào Thanh niên Hitler. Đức Giáo hoàng đã ngỏ lời trực tiếp với các linh mục, tu sĩ và giáo dân, động viên và kêu gọi họ phản kháng cho tới khi hoà bình thực sự giữa Giáo Hội và Nhà Nước được vãn hồi. Năm 1938, trước sự lan tràn của chủ nghĩa bài Do Thái (anti-Semitism), Đức Giáo hoàng Piô XI đã khẳng định: “Về mặt tinh thần, tất cả chúng ta đều là người sêmít”157.
Với Thông điệp Divini Redemptoris (Đấng Cứu Chuộc Thần linh)158, đề cập đến chủ nghĩa cộng sản vô thần và học thuyết xã hội Kitô giáo, Đức Giáo hoàng Piô XI đã trình bày một bài phê bình rất hệ thống về chủ nghĩa cộng sản, mô tả chủ nghĩa ấy “tự bản chất khác biệt với Giáo Hội về thế giới quan”159, và chỉ ra rằng phương thế chính yếu để sửa sai các hạn chế mà chủ nghĩa ấy đã đưa vào xã hội chính là canh tân đời sống Kitô hữu, thực hành bác ái theo Tin Mừng, chu toàn các nghĩa vụ công bằng cả trên bình diện tương quan con người lẫn xã hội nhằm mưu cầu công ích, và thể chế hoá các tập thể chuyên nghiệp và liên hiệp các ngành nghề.
93. Trong các Thông điệp Truyền thanh nhân dịp lễ Giáng Sinh của Đức Giáo hoàng Piô XII160, cùng với các sự can thiệp quan trọng khác của ngài trong các vấn đề xã hội, suy tư của Huấn Quyền Giáo Hội về một trật tự xã hội mới được hướng dẫn bởi luân lý và luật pháp, tập trung vào công lý và hoà bình, trở nên sâu sắc hơn. Triều đại giáo hoàng của Đức Piô XII trùng vào những năm kinh khủng của Thế chiến Thứ Hai và những năm tái thiết khó khăn. Ngài không công bố một thông điệp xã hội nào, nhưng trong nhiều tình huống khác nhau, ngài luôn tỏ ra quan tâm tới trật tự quốc tế đã bị lung lay tận gốc. “Trong thời kỳ chiến tranh và hậu chiến, nhiều người trên các châu lục và hàng triệu tín đồ tôn giáo hay không tôn giáo đã coi giáo huấn xã hội của Đức Piô XII như tiếng nói của lương tâm thế giới… Với thẩm quyền và uy tín tinh thần, Đức Giáo hoàng Piô XII đã mang ánh sáng của sự khôn ngoan Kitô giáo đến cho biết bao người thuộc đủ mọi hạng và tầng lớp xã hội”161.
Một trong những đặc điểm về các sự can thiệp của Đức Piô XII là tầm quan trọng ngài gán cho tương quan giữa luân lý và luật pháp. Ngài nhấn mạnh vào khái niệm luật tự nhiên, coi đó là linh hồn của một hệ thống xã hội cần thiết lập cả trên bình diện quốc gia lẫn quốc tế. Một khía cạnh quan trọng khác trong giáo huấn của Đức Piô XII là ngài chú ý tới các giới chuyên môn và kinh doanh, mời gọi họ hãy cộng tác với nhau cách đặc biệt để phục vụ ích chung. “Nhờ sự nhạy bén và thông minh trong việc nắm bắt các ‘dấu chỉ thời đại’, Đức Piô XII có thể được coi là người tiên phong trực tiếp của Công đồng Vatican II và của giáo huấn xã hội do các giáo hoàng kế vị ngài đưa ra”162.
94. Thập niên 1960 mang lại khá nhiều triển vọng hứa hẹn: sự khôi phục sau cuộc tàn phá của chiến tranh, khởi sự tiến trình xoá bỏ thuộc địa, và những dấu hiệu đầu tiên, tuy còn dè dặt, của sự bớt lạnh nhạt trong mối quan hệ giữa hai khối Hoa Kỳ và Xô Viết. Đây chính là bối cảnh trong đó Chân phúc Giáo hoàng Gioan XXIII đã đọc được “các dấu chỉ của thời đại” một cách sâu sắc163Vấn đề xã hội đang trở nên có tính toàn cầu, liên hệ đến mọi quốc gia: cùng với vấn đề lao động và cuộc Cách mạng Công nghiệp, nay lại xuất hiện các vấn đề nông nghiệp, vấn đề các nước đang phát triển, vấn đề gia tăng dân số và những vấn đề liên quan tới nhu cầu hợp tác kinh tế toàn cầu. Những sự bất bình đẳng trước đây chỉ được trải nghiệm trong nội bộ các quốc gia, nay đang trở nên mang tính quốc tế và càng làm cho tình hình bi đát của Thế giới Thứ Ba thêm rõ rệt hơn bao giờ hết.
Trong Thông điệp Mater et Magistra (Mẹ và Thầy)164, Chân phúc Giáo hoàng Gioan XXIII “nhằm mục đích cập nhật các văn kiện đã có và tiến xa thêm một bước trong tiến trình đưa toàn thể cộng đồng Kitô hữu hội nhập vào thế giới”165. Những từ khoá trong thông điệp này là “cộng đồng” và “xã hội hoá166: Giáo Hội được mời gọi hợp tác với mọi người xây dựng một sự hiệp thôngđích thực trong chân lý, công bằng và bác ái. Có như thế, sự tăng trưởng kinh tế sẽ không bị giới hạn trong việc chỉ nhằm thoả mãn các nhu cầu của con người, mà còn giúp thăng tiến phẩm giá con người.
95. Với Thông điệp Pacem in Terris (Hoà bình trên Thế giới)167, Chân phúc Giáo hoàng Gioan XXIII nêu lên hàng đầu vấn đề hoà bình trong một kỷ nguyên được đánh dấu bằng việc phát triển vũ khí hạt nhân. Ngoài ra, thông điệp còn chứa đựng một trong những suy tư sâu sắc đầu tiên về quyền của Giáo Hội; đó đúng là thông điệp của hoà bình và phẩm giá con người. Nó tiếp nối và bổ sung cuộc tranh luận trong Thông điệp Mater et Magistra. Và cũng theo chiều hướng mà Đức Lêô XIII đã vạch ra, thông điệp nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác giữa mọi người. Đây là lần đầu tiên một văn kiện Giáo Hội cũng được gửi cho “mọi người thiện chí”168, mời gọi mọi người tham gia vào một nhiệm vụ cao cả là “lập ra những phương pháp mới để quan hệ với nhau trong xã hội loài người trong chân lý, công bằng, yêu thương và tự do”169. Thông điệp nói nhiều đến thẩm quyền chung của cộng đồng thế giới, mời gọi họ hãy “tiếp cận và giải quyết các vấn đề mang tính kinh tế, xã hội, chính trị hay văn hoá do ích lợi chung của thế giới đặt ra”170. Nhân kỷ niệm mười năm Thông điệp Pacem in Terris, Đức Hồng y Maurice Roy, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình, đã gửi cho Đức Giáo hoàng Phaolô VI một lá thư kèm theo một tài liệu với một loạt những suy nghĩ về các khả năng mà thông điệp trên đây của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII có thể cung cấp để soi sáng những vấn đề mới liên quan đến việc xây dựng hoà bình171.
96. Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng)172 của Công đồng Vatican II là một sự đáp ứng quan trọng của Giáo Hội trước các sự chờ mong của thế giới đương thời. Trong hiến chế ấy, “để hài hoà với sự canh tân Giáo Hội, đã có một quan niệm mới về việc làm thế nào để trở thành cộng đồng các tín hữu và cộng đồng dân Chúa. Nó thúc đẩy người ta quan tâm lại nền giáo huấn chứa đựng trong các văn kiện trước về việc làm chứng và đời sống của các Kitô hữu, được coi như những phương thế đích thực làm cho Thiên Chúa hiện diện trong thế giới hữu hình này”173. Hiến chế giới thiệu khuôn mặt của một Giáo Hội “thấy mình thật sự liên đới sâu xa với loài người và lịch sử nhân loại”174, một Giáo Hội cùng đi chung một hành trình với nhân loại và cùng chia sẻ số phận trần gian với thế giới, nhưng đồng thời cũng cố gắng “làm chút men và làm linh hồn của xã hội loài người đang muốn được Đức Kitô canh tân và biến đổi thành gia đình Thiên Chúa”175.
Gaudium et Spes trình bày một cách hệ thống các chủ đề về văn hoá, về đời sống kinh tế và xã hội, hôn nhân và gia đình, về cộng đồng chính trị, về hoà bình và cộng đồng các dân tộc, dựa trên quan điểm nhân học Kitô giáo và sứ mạng Giáo Hội. Mọi sự đều được xem xét bắt đầu từ con người và hướng tới con người, “thụ tạo duy nhất mà Thiên Chúa muốn vì chính nó”176. Xã hội, cơ cấu và sự phát triển xã hội phải được hướng tới chỗ giúp “con người tiến bộ”177. Lần đầu tiên, Huấn Quyền Giáo Hội, ở cấp cao nhất, nói nhiều về các khía cạnh thế trần khác nhau của đời sống Kitô hữu: “Phải công nhận rằng sự quan tâm của Hiến chế đối với những sự thay đổi về xã hội, tâm lý, chính trị, kinh tế, luân lý và tôn giáo càng ngày càng thúc đẩy… mối  quan tâm mục vụ của Giáo Hội đối với các vấn đề của con người và việc đối thoại với thế giới”178.
97. Một văn kiện quan trọng khác của Công đồng Vatican II trong tổng hợp giáo huấn xã hội của Giáo Hội là Tuyên ngôn Dignitatis Humanae (Phẩm giá Con người)179, trong đó Công đồng công bố rất minh bạch quyền tự do tôn giáo. Văn kiện trình bày đề tài này trong hai chương. Chương thứ nhất, có tính cách tổng quát, khẳng định rằng tự do tôn giáo là quyền xây dựng trên phẩm giá con người và phải được phê chuẩn như một quyền dân sự trong trật tự pháp lý của xã hội. Chương thứ hai cũng bàn về chủ đề ấy nhưng dưới ánh sáng Mạc khải và tìm cách làm sáng tỏ những kết luận mục vụ rút ra từ chủ đề ấy, đồng thời chỉ ra rằng đó là một quyền liên quan đến con người không chỉ trong tư cách cá nhân mà cả trong tư cách các cộng đồng con người khác nữa.
98. “Phát triển là tên gọi mới của hoà bình”180, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã long trọng tuyên bố như thế trong Thông điệp Populorum Progressio (Phát triển các Dân tộc)181, được xem là sự khai triển của chương nói về đời sống kinh tế và xã hội trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, dù thông điệp có đưa thêm vào một số yếu tố mới rất có ý nghĩa. Cách riêng, thông điệp đưa ra những nét khái quát về một sự phát triển con người toàn diện và về việc phát triển trong sự liên đới với toàn thể nhân loại: “Cần phải coi hai chủ đề này như các trục mà Thông điệp được kết cấu xoay quanh đó. Trong ước muốn thuyết phục những người tiếp nhận Thông điệp này cần hành động khẩn cấp trong tinh thần liên đới, Đức Giáo hoàng trình bày phát triển là ‘sự chuyển tiếp từ những điều kiện kém nhân bản sang những điều kiện nhân bản hơn’, đồng thời cho thấy những đặc tính của sự phát triển ấy”182Sự chuyển tiếp này không chỉ diễn ra trong các lĩnh vực kinh tế và công nghệ, mà còn gợi ý cho mỗi người trong việc tiếp thu nền văn hoá, việc tôn trọng phẩm giá người khác, việc nhìn nhận “điều thiện cao đẹp nhất, nhận ra chính Chúa là tác giả và là cùng đích của những ơn ích ấy”183. Phát triển mà làm lợi cho mọi người là sẽ đáp ứng các đòi hỏi của công lý trên phạm vi toàn cầu, điều này bảo đảm một nền hoà bình thế giới và tạo điều kiện để thực hiện một “nền nhân bản toàn diện”184 dưới sự hướng dẫn của các giá trị tinh thần.
99. Về điểm này, năm 1967, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình (Justitia et Pax), và như thế thoả mãn các nguyện vọng của các Nghị phụ Công đồng, các ngài coi đây là cơ hội thuận tiện nhất để thành lập một cơ quan của Giáo Hội toàn cầu, hầu có thể triển khai công lý và tình yêu của Đức Kitô đối với người nghèo ở khắp nơi. Vai trò của cơ quan ấy sẽ là thúc đẩy cộng đồng Công giáo đẩy mạnh sự tiến bộ tại các nơi nghèo đói và đẩy mạnh công lý xã hội trên thế giới”185. Đầu năm 1968, theo sáng kiến của Đức Giáo hoàng Phaolô VI, Giáo Hội cử hành ngày đầu tiên trong năm là Ngày Thế giới Hoà bình. Cũng chính vị Giáo hoàng này khởi sự truyền thống viết thông điệp hằng năm bàn về một chủ đề được chọn choNgày Thế giới Hoà bình ấy. Các thông điệp này triển khai và làm phong phú thêm cho tập hợp giáo huấn xã hội của Giáo Hội.
100. Đầu thập niên 1970, trong bầu khí sôi sục và tranh cãi quyết liệt về ý thức hệ, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã trở lại với giáo huấn xã hội của Đức Lêô XIII và cập nhật giáo huấn ấy, nhân kỷ niệm 80 năm Thông điệp Rerum Novarum, qua Tông thư Octogesima Adveniens (Tiến đến 80 năm) của mình186. Đức Giáo hoàng suy nghĩ về xã hội thời hậu công nghiệp cùng với tất cả các vấn đề phức tạp của nó, nhìn nhận sự thật là các ý thức hệ không đủ khả năng đáp ứng các thách đố sau đây: hiện tượng đô thị hoá, tình trạng của giới trẻ, tình trạng của phụ nữ, tình trạng thất nghiệp, nạn kỳ thị, tình trạng di dân, sự gia tăng dân số, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông xã hội, vấn đề sinh thái.
101. Chín mươi năm sau Thông điệp Rerum Novarum, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã dành Thông điệp Laborem Exercens (Người lao động)187 cho vấn đề lao động, là giá trị căn bản của con người, là nhân tố trên hết của hoạt động kinh tế và là chìa khoá của toàn bộ vấn đề xã hội. Thông điệp Laborem Exercens vạch ra một nền linh đạo và đạo đức cho việc lao động trong toàn bộ suy tư thần học và triết học sâu sắc. Lao động được hiểu không chỉ theo nghĩa khách quan và vật chất, mà còn phải ghi nhớ chiều kích chủ quan của lao động, như một sự biểu hiện bản thân con người. Bên cạnh vai trò là một hệ biến hoá mang tính quyết định cho đời sống xã hội, lao động còn có giá trị ở chỗ nó là khung cảnh trong đó thiên chức tự nhiên và siêu nhiên của con người được hoàn thành.
102. Với Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (Quan tâm đến Vấn đề Xã hội)188, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II kỷ niệm 20 năm Thông điệp Populorum Progressio và một lần nữa bàn tới chủ đề phát triển theo hai hướng căn bản: “một đàng là tình hình bi đát của thế giới hiện nay với sự thất bại của Thế giới Thứ Ba trong việc phát triển, và đàng khác là ý nghĩa của những điều kiện và những đòi hỏi để có được sự phát triển xứng đáng với con người”189. Thông điệp này cho thấy những sự khác nhau giữa tiến bộ và phát triển, đồng thời nhấn mạnh rằng “phát triển thực sự không phải chỉ là gia tăng của cải và dịch vụ – gia tăng những gì người ta có – mà còn phải là góp phần làm cho người ta được ‘làm người’ cách sung mãn. Có như thế, bản chất luân lý của một sự phát triển đích thực mới được biểu lộ rõ ràng”190. Khi liên tưởng tới châm ngôn của triều Giáo hoàng Piô XII là opus justitiae pax (hoà bình là hoa trái của công lý), Đức Gioan Phaolô II đã bình luận: “Ngày nay, người ta cũng có thể nói một cách chính xác và mạnh mẽ như đã cảm hứng từ Thánh Kinh (x. Is 32,7; Gc 3,8): opus solidaritatis pax (hoà bình là hoa trái của tình liên đới)”191.
103.  Nhân kỷ niệm 100 năm Thông điệp Rerum Novarum, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp xã hội thứ ba của mình, mang tên Centesimus Annus (Bách Chu Niên)192, cho thấy sự liên tục về mặt giáo lý của Huấn quyền Xã hội Công giáo suốt 100 năm. Lấy lại một trong những nguyên tắc căn bản trong quan điểm Kitô giáo về tổ chức xã hội và chính trị, đã từng là chủ đề chính của Thông điệp trước đó, Đức Giáo hoàng viết: “Cái mà ngày nay chúng ta gọi là nguyên tắc liên đới… đã từng là điều mà Đức Giáo hoàng Lêô XIII thường xuyên muốn nói khi dùng từ ngữ ‘hữu nghị’… Đức Piô XI cũng liên tưởng đến điều ấy khi dùng thuật ngữ hết sức ý nghĩa là ‘bác ái xã hội’. Còn Đức Phaolô VI đã mở rộng khái niệm này để tóm gọn nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề xã hội, khi nói đến ‘văn minh tình yêu”193. Đức Gioan Phaolô II đã chứng minh làm thế nào giáo huấn xã hội của Giáo Hội có thể phát triển theo trục qua lại giữa Thiên Chúa và con người: nhận ra Chúa nơi mọi người và nhìn mọi người trong Chúa chính là điều kiện để phát triển con người cách đích thực. Sự phân tích một cách mạch lạc và sâu sắc “những sự việc mới”, cách riêng biến cố năm 1989 với sự sụp đổ của hệ thống Xô Viết, cho thấy sự am hiểu của ngài về nền dân chủ và kinh tế tự do, trong bối cảnh của một sự liên đới hết sức cần thiết.  
c. Dưới ánh sáng và sự thúc đẩy của Tin Mừng
104Các văn kiện nêu trên đây chính là những cột mốc đánh dấu cuộc hành trình mà học thuyết xã hội của Giáo Hội đã đi qua, kể từ thời Đức Giáo hoàng Lêô XIII cho đến hôm nay. Bản đúc kết ngắn gọn này có thể sẽ dài hơn, nếu chúng ta xét đến tất cả các sự can thiệp, hơn là theo một chủ đề đặc biệt, vì “mối quan tâm mục vụ muốn giới thiệu cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu và với mọi người thiện chí các nguyên tắc căn bản, các tiêu chuẩn phổ quát và các đường hướng phù hợp để có những sự lựa chọn căn bản và những việc làm cụ thể trong mỗi tình huống cụ thể”194.
Khi soạn thảo và giảng dạy học thuyết xã hội này, Giáo Hội đã và vẫn đang làm việc không phải do một động cơ lý thuyết nào mà do những mối quan tâm mục vụ. Giáo Hội được thúc đẩy bởi những âm hưởng mà các biến cố xã hội gây ra trên con người, trên quần chúng, trên phẩm giá con người, trong bối cảnh là “loài người đang vất vả tìm kiếm một thế giới tốt đẹp hơn nhưng lại không hành động với cùng một nhiệt tâm để cải thiện chính tinh thần của mình”195. Chính vì lý do đó, học thuyết xã hội này đã ra đời và đã được triển khai thành một “‘tổng hợp’ giáo lý cập nhật…, được xây dựng từ từ cùng lúc với Giáo Hội khi Giáo Hội dựa vào lời đã được Đức Kitô Giêsu mạc khải trọn vẹn và được Chúa Thánh Thần nâng đỡ (x. Ga 14,16.26; 16,13-15), để xem xét các biến cố như chúng đang diễn ra trong dòng lịch sử”196.
----------------------------------------------------------------------------------------------------
139  x. Piô XI, Thông điệp Quadragesimo Anno: AAS 23 (1931), 179; Piô XII, trong
    Thông điệp Truyền thanh nhân kỷ niệm 50 năm Thông điệp Rerum Novarum: AAS
    33 (1941), 197, có nói tới “Giáo huấn Xã hội Công Giáo” và, trong Thông điệp
    “Menti Nostrae” ngày 22-09-1950: AAS 42 (1950), 657, có nói tới “Giáo huấn xã
    hội của Giáo Hội”. Gioan XXIII giữ lại kiểu nói “Giáo huấn xã hội của Giáo Hội”
     (Mater et Magistra: AAS 53 [1961], 453; TĐ Pacem in Terris: AAS 55 [1963], 300-
    301). Ngài cũng nói “Giáo huấn Xã hội Kitô giáo” TĐ (Mater et Magistra: AAS
     53[1961], 453) hay “Giáo huấn Xã hội Công giáo” TĐ (Mater et Magistra: AAS 53
      [1961], 454).
140  x. Lêô XIII, Thông điệp Rerum Novarum: Acta Leonis XIII, 11 (1892), 97-144.
141  x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens, 3: AAS 73 (1981), 583-584;
     Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, 1: AAS 80 (1988), 513-514.
142  x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 2421.
143  x. Lêô XIII, Thông điệp Rerum Novarum: Acta Leonis XIII, 11 (1892), 97-144.
144  Bộ Giáo dục Công giáo, Hướng dẫn Học tập và Giảng dạy Học thuyết Xã hội của
    Giáo Hội trong việc Đào tạo Linh mục, 20, Nhà Xuất bản Đa ngữ Vatican, Roma
    1988, tr. 24.
145  x. Piô XI, Thông điệp Quadragesimo Anno, 39: AAS 23 (1931),189; Piô XII,
    Thông điệp Truyền thanh nhân kỷ niệm 50 năm Thông điệp Rerum Novarum:
    AAS 33 (1941), 198.
146  Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus, 5: AAS 83 (1991), 799.
147  Ibid.
148  Ibid., Thông điệp Centesimus Annus, 56: AAS 83 (1991), 862.
149  Ibid., Thông điệp Centesimus Annus, 60: AAS 83 (1991), 865.
150  Ibid.
151  Lêô XIII, Thông điệp Rerum Novarum: Acta Leonis XIII, 11 (1892), 143; x. Gioan
     Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus, 56: AAS 83 (1991), 862.
152  x. Piô XI, Thông điệp Quadragesimo Anno: AAS 23 (1931), 177-228.
153  Id., Thông điệp Quadragesimo Anno: AAS 23 (1931), 186-189.
154  Bộ Giáo dục Công giáo, Hướng dẫn Học tập và Giảng dạy Học thuyết Xã hội của
    Giáo Hội trong việc Đào tạo Linh mục, 21, Nhà Xuất bản Đa ngữ Vatican, Roma
    1988, tr. 24.
155  x. Piô XI, Thông điệp Non Abbiamo Bisogno: AAS 23 (1931), 285-312.
156  Có thể tìm bản Đức ngữ chính thức trong AAS 29 (1937), 145-167.
157  Piô XI, Diễn văn gửi các ký giả truyền thanh nước Bỉ (06-09-1938), trích lại trong
    Gioan Phaolô II, Diễn văn gửi các nhà lãnh đạo thế giới trong Liên minh Chống
    bôi nhọ B’nai B’rith (22-03-1984): L’Osservatore Romano, bản Anh ngữ, 26-03-
    1984, tr. 8.11.
158  Có thể tìm bản La ngữ chính thức trong AAS 29 (1937), 65-106.
159  x. Piô XI, Thông điệp Divini Redemptoris: AAS 29 (1937), 130.
160  x. Piô XI, Các thông điệp truyền thanh dịp lễ Giáng Sinh: về hoà bình và trật tự thế
   giới, năm 1939, AAS 32 (1940), 5-13; năm 1940, AAS 33 (1941), 5-14; năm 1941,
  AAS 34 (1942), 10-21; năm 1945, AAS 38 (1946), 15-25; năm 1946, AAS 39
   (1947), 7-17; năm 1948, AAS 41 (1949), 8-16; năm 1950, AAS 43 (1951), 49-59; năm
   1951, AAS 44 (1952), 5-15; năm 1954, AAS 47 (1955), 15-28; năm 1955, AAS 48
   (1956), 26-41; về trật tự trong nội bộ các quốc gia, 1942, AAS 35 (1943), 9-24; về
   dân chủ, 1944, AAS 37 (1945), 10-23; về vai trò của văn minh Kitô giáo, 01-09-
   1944, AAS 36 (1944), 249-258; về việc quay trở lại với Chúa trong lòng quảng đại 
   và trong tình anh em, 1947, AAS 40 (1948), 8-16; về năm đại hoán cải và đại tha
     thứ, 1949, AAS 42 (1950), 121-133; về tình trạng con người đánh mất chính mình, 1952,
   AAS 45 (1953), 33-46; về vai trò tiến bộ trong công nghệ và hoà bình giữa các dân
   tộc, 1953, AAS 46 (1954), 5-16.
161  Bộ Giáo dục Công giáo, Hướng dẫn Học tập và Giảng dạy Học thuyết Xã hội của
    Giáo Hội trong việc Đào tạo Linh mục, 22, Nhà Xuất bản Đa ngữ Vatican, Roma
    1988, tr. 25.
162  Ibid.
163  x. Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in Terris: AAS 55 (1963), 267-269, 278-279,
    291, 295-296.
164  x. Gioan XXIII, Thông điệp Mater et Magistra: AAS 53 (1961), 460-464.
165  Bộ Giáo dục Công giáo, Ibid. 23, tr. 26.
166  x. Gioan XXIII, Thông điệp Mater et Magistra: AAS 53 (1961), 415-418.
167  x. Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in Terris: AAS 55 (1963), 257-304.
168  Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in Terris, Tựa đề: AAS 55 (1963), 257.
169  Ibid. 301.
170  x. Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in Terris: AAS 55 (1963), 294.
171 x. Hồng y Maurice Roy, Thư gửi Đức Phaolô VI và Thông điệp nhân kỷ niệm 10 năm
   Thông điệp Pacem in Terris, L’Osservatore Romano, bản Anh ngữ, 19-04-1973, tr. 1-8.
172  x. CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes: AAS 58 (1966), 1025-1120.
173  Bộ Giáo dục Công giáo, Ibid. 24, tr. 28.
174  CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 1: AAS 58 (1966), 1026.
175  CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 40: AAS 58 (1966), 1058.
176  Ibid. 24, 1045.
177  Ibid. 25, 1045.
178  Bộ Giáo dục Công giáo, Ibid. 24, tr. 29.
179  x. CĐ. Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis Humanae: AAS 58 (1966), 929-946.
180  Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio, 76-80: AAS 59 (1967), 294-296.
181  x. Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio: AAS 59 (1967), 257-299.
182  Bộ Giáo dục Công giáo, Ibid. 25, tr. 29.
183  Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio, 21: AAS 59 (1967), 267.
184  Ibid. 42, 278.
185 CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 90: AAS 58 (1966), 1112.
186  x. Phaolô VI, Tông thư Octogesima Adveniens: AAS 63 (1971), 401-441.
187  x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens: AAS 73 (1981), 577-647.
188  x. Idem, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis: AAS 80 (1988), 513-586.
189  Bộ Giáo dục Công giáo, Ibid. 26, tr. 32.
190  Ibid.
191  Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, 39: AAS 80 (1988), 568.
192  x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus: AAS 83 (1991), 793-867.
193  Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus, 10: AAS 83 (1991), 805.
194  Bộ Giáo dục Công giáo, Ibid. 27, tr. 33.
195  CĐ. Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 4: AAS 58 (1966), 1028.
196  Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, 1: AAS 80 (1988), 514; x. Giáo
     lý Giáo hội Công giáo, 2422.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét