Chưa bao giờ nhân loại sở hữu nhiều của cải, dịch vụ, kỹ thuật, công nghệ và
tri thức như hôm nay, nhưng cũng chưa bao giờ số người bị đói tăng cao và hố
phân cách giàu nghèo sâu thẳm như ở giai đoạn toàn cầu hóa này. Số người bị đói
tăng cao chưa từng thấy! Tại sao có hiện tượng phi lý và phi nhân này? Một vài
con số do tổ chức Lương-Nông Thế giới của Liên Hiệp Quốc (FAO) cung cấp sẽ giúp
chúng ta nhìn rõ vấn đề hơn.
Hội nghị
Thượng đỉnh về an ninh lương thực năm 1996 do FAO tổ chức đã đưa ra mục tiêu
toàn cầu là đến năm 2015 sẽ giảm 50% số người bị đói trên thế giới. Để thực
hiện mục tiêu đó, mỗi năm nhân loại phải giảm 24 triệu người đói. Tuy nhiên,
trong khoảng thời gian từ 1996 đến 2000, mỗi năm chỉ giảm khoảng 2,5 triệu
người đói, trong khi đó số người chết đói hàng năm cao gấp đôi con số này.
Cũng theo
báo cáo của FAO, năm 1998-2000 số người đói ăn trên thế giới đã lên tới khoảng
840 triệu, trong số đó 799 triệu thuộc các nước nghèo, 30 triệu thuộc các nước
mới phát triển và 11 triệu thuộc các nước đã phát triển. Mặc dù Liên Hiệp Quốc
vẫn tiếp tục tái khẳng định cam kết đến năm 2015 sẽ giảm một nửa số người bị
đói, nhưng trên thực tế số người bị đói cứ vùn vụt tăng cao: Năm 2008 là 915
triệu người, nhưng năm 2009 đã lên tới 1,2 tỷ người bị đói. Đây là con số người
bị đói lớn nhất trong lịch sử và như vậy, cứ 6 người đang sống trên hành tinh
này thì có một người bị đói.
Tại sao
càng chống đói thì số người bị đói lại càng tăng? Tại sao ở thời toàn cầu hóa,
giữa lúc nhân loại đã lên mặt trăng và đang thám hiểm sao hỏa, thế mà cứ 6 giây
thì ở đâu đó trên địa cầu này, có một trẻ em chết vì đói?
Người ta
đã đưa ra nhiều lối giải thích, trong đó yếu tố tăng dân số, chiến tranh, mất
mùa, khủng hoảng kinh tế và thiếu đầu tư cho nông nghiệp… được coi là nguyên
nhân. Cũng có người đổ lỗi cho các tập đoàn đa quốc gia đã mua hoặc thuê dài
hạn đất nông nghiệp của các nước nghèo để sản xuất các loại nông sản nguyên
liệu phục vụ lợi ích của người giàu chứ không nhằm bảo đảm an ninh lương thực
trên thế giới.
Bất chấp
nguyên do và lối giải thích như thế nào đi chăng nữa, thì không ai có thể chấp
nhận tình trạng đói ăn của 1,2 tỷ người giữa nhân loại giàu sang và có đầy đủ
khả năng kỹ thuật để loại trừ nghèo đói. Giáo chủ Biển Đức XVI đã khẳng khái nói
lên tiếng nói của lương tri trước Hội nghị Thượng đỉnh về an ninh lương thực
của tổ chức Lương – Nông Liên Hiệp Quốc (FAO): “Nạn đói không do thiếu tài
nguyên vật chất cho bằng thiếu tài nguyên xã hội, trong đó thiếu hụt quan trọng
nhất thuộc về cơ cấu tổ chức. Thực vậy, hiện đang thiếu một cơ cấu các tổ chức
kinh tế có khả năng bảo đảm lương thực và nước uống một cách thường xuyên và
thích hợp, cũng như có thể đáp ứng các nhu cầu căn bản và khẩn thiết do cuộc
khủng hoảng lương thực gây ra”[1].
Nói cho
cùng, nguyên nhân sâu xa nhất của tình trạng nghèo đói ở thời toàn cầu hóa này
không chỉ nằm ở điều kiện vật chất hay khả năng kỹ thuật, mà trước tiên
do thiếu quyết tâm và thiếu tình liên đới. Một dẫn
chứng điển hình là “Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về An ninh Lương thực” được
tổ chức tại Roma, vào tháng 11 năm 2009, chỉ vỏn vẹn khoảng 60 nguyên thủ quốc
gia tham dự, trong số đó có Giáo chủ Biển Đức XVI. Điều đáng lưu ý nhất là
không có một nguyên thủ nào của nhóm quốc gia giàu nhất – G8 – hiện diện tại
Hội nghị, ngoại trừ Thủ tướng Ý với lý do là nước chủ nhà.
Trong bối
cảnh đó, liên đới trở thành một vấn đề khẩn thiết cho nhân loại hôm nay. Không
phải vô lý mà Giáo chủ Gioan Phaolô II gọi nó là một “nhân đức Kitô giáo”[2]. Có người lại coi nó như một hình thức hiện đại hóa của
bác ái Kitô giáo hay trần tục hóa tình yêu thương phổ quát.
9.1.
Quan niệm liên đới
Xây dựng
trên nền tảng triết lý xã hội, liên đới (solidarité,
solidarity, solidaridad) nhìn con người như một hữu thể xã hội, một đồng bào,
một thành phần của nhân loại và nhất là một nhân vị. Vận mệnh của mỗi người
được nối kết và gắn chặt với vận mệnh của bao nhiêu người khác. Chiều kích liên
đới này là yếu tố nền tảng của con người sống bên nhau và sống với nhau trong
một thế giới.
Ở đây,
tình liên đới bao hàm ý tưởng hiệp thông, chia sẻ cảnh ngộ, cảm thương những
phận đời hẩm hiu và tự cảm thấy có trách nhiệm nào đó trước những nỗi bất hạnh
xảy đến cho đồng loại. Vượt trên những đòi hỏi của pháp lý theo nghĩa chặt,
liên đới mời gọi mọi thành viên trong xã hội cố gắng thực hiện những công tác
cứu trợ, giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tương thân tương ái hay đấu
tranh nhằm xây dựng một xã hội công bằng và nhân ái hơn.
Mặc dù
người ta gặp thấy ý niệm liên đới nơi nhiều tôn giáo và văn hóa, nhưng quan
niệm liên đới được sử dụng trong triết lý xã hội hiện đại khai sinh ở
giai đoạn cách mạng Pháp 1789 và phổ biến rộng rãi vào thời hậu cách mạng để đề
cao sự nhạy cảm đối với công bằng xã hội và ý thức tình huynh đệ, nghĩa đồng
bào giữa những người dân cùng một nước hay giữa các thành viên của cùng một tổ
chức, một hiệp hội hoặc một đoàn thể.
Quan niệm
“liên đới” này trước tiên được sử dụng trong lãnh vực pháp lý để diễn tả sự
ràng buộc pháp lý chặt chẽ giữa chủ nợ với con nợ. Trách nhiệm pháp lý của con
nợ có thể được thay thế bởi một người khác, nếu chính đương sự không có khả
năng để chu toàn lời cam kết của mình. Khi quan niệm này được sử dụng trong
lãnh vực nhân học và xã hội học thì càng làm rõ nét hơn ý nghĩa nhân bản của “sợi
dây liên đới”: không còn là một thứ vị tha chủ nghĩa hay thái độ quảng đại
chung chung trong tương quan đối với người khác, mà trước hết là một trách
nhiệm mang tính bổn phận đối với tha nhân.
Với thời
gian, liên đới trở thành một thứ “chìa khóa” và một
“diễn ngữ đầy ấn tượng” để diễn tả mối dây liên kết chặt chẽ và
linh thiêng trong lãnh vực đạo đức xã hội: Xét như là con người, chúng ta kết
thành một khối, một thực tại bền vững và một gia đình nhân loại. Chính bản tính
con người, ý thức nhân loại và nghĩa đồng bào của những người cùng một giống
nòi hay cùng đồng hành trên con thuyền nhân loại, đòi hỏi chúng ta phải có tâm
tình, hành vi, trách nhiệm liên đới với nhau. Chúng ta đồng trách nhiệm với
nhau và phải đối xử với nhau theo quy luật liên đới: Ý thức, cảm nhận và chấp
nhận điều kiện nhân loại như một thân phận chung, trong đó mọi người liên đới
và đồng hành với nhau[3].
Quan niệm
liên đới này dẫn chúng ta đến trung tâm điểm của đạo đức học hiện đại: Đề
cao mối tương quan giữa chủ thể và tha tính. Triết gia
Emmanuel Levinas và Paul Ricoeur là hai người tranh đấu không mệt mỏi cho chiều
kích liên đới này. E. Levinas đề nghị làm triết học theo hướng khác: Thay vì
khép kín trong “tự thân” để rồi rơi vào cá nhân chủ nghĩa, ông đề nghị
mở rộng cánh cửa cho tha nhân. Thay vì thứ “hữu thể thuần túy” theo lối
nhìn của Heidergger, Levinas trình bày mối tương quan sinh động mới, trong đó
không còn giản lược tất cả vào tương quan giữa chủ thể vớiđối
tượng, mà nhằm hướng tới một lối tiếp cận khác, một tương quan đặc
biệt với tha nhân[4].
Dưới cái
nhìn của Levinas, “tha tính” chính là một cách thế khác để hiện hữu, cho
phép con người thực hiện chính mình một cách phong phú và tốt đẹp hơn. Nói cách
khác, để đạt tới việc thực hiện “tự thân” đích thực thì cần phải thực
hiện “tự tha”. Levinas thú nhận: “Tương quan với tha nhân bắt
buộc tôi phải đặt lại vấn đề về chính mình. Nó lột trần chính bản thân tôi và
không ngừng lột trần tôi, giúp tôi luôn khám phá trong chính mình những nguồn
năng lực mới”[5].
“Tha
tính” của Levinas vừa là một “cái
tôi khác”, vừa là “người khác tôi”. Tha tính vượt ra
ngoài chiều kích thuần túy hữu thể, đoạn tuyệt với tính tự túc và tự lập của
một lý trí xây dựng trên cái tôi tuyệt đối, cô đơn và khép kín, để đặt mình
trong chiều kích tương quan của viễn cảnh đạo đức liên đới.
Bén rễ nơi
triết lý xã hội, liên đới luôn giả thiết công lý, nhưng đi xa hơn công lý hay
công bằng xã hội. Một mặt, như Victoria Camps đã ghi nhận, “lòng chung thủy đối
với bạn bè, lòng cảm thương đối với một người bị ngược đãi, việc hỗ trợ người
bị bách hại, hành động dấn thân vào những chuyện coi như thất bại hoặc không
được đại chúng ái mộ, không thể tạo thành một bổn phận đích thực của công bằng,
nhưng chắc chắn là bổn phận của liên đới”[6].
Mặt khác,
với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và nền kinh tế tri thức, sự phát triển của
các nước giàu lệ thuộc nhiều ở khả năng sáng tạo và việc biến đổi kỹ thuật nội
tại hơn là hành động trấn lột các nước nghèo. Chính vì thế, không thể dễ dàng
đồng hóa những “người bị loại trừ” trong nền kinh tế tri thức
với những “người bị bóc lột”, hiểu theo quan niệm cổ điển. Lý do giản dị
là trong hệ thống kinh tế hiện nay, những người nghèo không hẳn là những người
bị bóc lột, mà đúng hơn là những người bị loại trừ. Bởi vì họ chỉ là những lao
động phổ thông hay bị thất nghiệp, nên đã trở thành những cánh tay thừa thãi
trong một nền kinh tế ngày càng chuyên nghiệp và cần nhiều chất xám. Do đó,
không dễ dàng dựa trên công bằng xã hội để đòi hỏi quyền lợi cho họ, nhưng luôn
luôn vẫn có thể nêu lên những yêu sách đạo đức từ viễn tượng liên đới với những
người ít may mắn, bị thiệt thòi hay bất cứ vì lý do bất hạnh nào khác.
9.2-
Liên đới, một trách nhiệm phổ quát
Đối với
Giáo huấn xã hội của Giáo Hội, nguyên tắc liên đới cùng với
những nguyên tắc khác như phẩm giá con người, công ích, bổ trợ, vận
mệnh phổ quát của tài sản và ưu tiên chọn lựa người nghèo… luôn định
hướng mối tương quan giữa người với người, cũng như giữa các xã hội với nhau.
Nếu có người đã gọi người khác là “lang sói” hay gán cho tha nhân nhãn
hiệu “địa ngục”, thì đối với người Công giáo, tha nhân vừa là người
anh em, vừa là thành phần của bản thân tôi.
Ngay trong
lời mở đầu của thông điệp Tân sự (Rerum novarum, 1891), đức
Lêô XIII đã viết: “Mối tương quan giữa chủ và thợ đã thay đổi. Của cải chảy vào
tay một thiểu số, trong khi đó đại đa số lâm cảnh khốn cùng”. Chính vì muốn góp
phần “tìm kiếm giải pháp cho vấn đề thân phận người lao động”[7], thông điệp xã
hội đầu tiên đã được ban hành.
70 năm
sau, thông điệp Mẹ và Thầy (1961) đưa ra một cái
nhìn toàn cầu hơn về vấn đề xã hội. Trong bối cảnh của các vấn đề mới mẻ và
phức tạp của thời đại, Giáo chủ Gioan XXIII đề cập đến vấn đề phát triển và mối
tương quan giữa nước giàu với nước nghèo. Liên đới trở thành
một thách đố và một trong những vấn đề gai góc của thời hiện đại, bởi vì “vấn
đề quan trọng nhất của thời đại chúng ta có lẽ là vấn đề tương quan giữa các
nước kinh tế phát triển với các nước đang phát triển: Các nước kinh tế phát
triển hưởng mọi tiện nghi, trong khi đó các nước đang phát triển lại thiếu thốn
trầm trọng. Liên đới nối kết tất cả mọi người trong cùng một gia đình duy nhất,
đòi hỏi các nước giàu không được hờ hững đối với các nước nghèo, nơi mà người
dân đang phải vật lộn với cuộc sống lầm than, nghèo đói và chưa được hưởng
những quyền lợi căn bản của con người”[8].
Trách
nhiệm liên đới này càng gia tăng do việc gia tăng mối tương quan đồng lệ thuộc
giữa các dân tộc và nhất là do hố phân cách quá sâu thẳm giữa nước giàu với
nước nghèo. Nếu thiếu vắng tình liên đới thì không những chúng ta không thể đạt
tới phát triển bền vững, mà hơn nữa nền hòa bình thế giới cũng có nguy cơ sụp
đổ. Liên đới, trái lại, vừa nối kết các dân tộc, vừa có khả năng làm giảm nhẹ
các nguyên nhân gây bất hòa và chiến tranh. Chính vì vậy, Đức Gioan XXIII long
trọng đề cao nguyên tắc liên đới: “Tất cả chúng ta có trách nhiệm liên đới với
các dân tộc đói nghèo… Vì vậy, cần phải đào tạo lương tâm của mọi người và của
mỗi người, nhất là lương tâm của những người giàu, về trách nhiệm liên đới quan
trọng này”[9].
Công đồng
Vatican II tiếp tục khai triển lý tưởng một thế giới huynh đệ, liên đới và đồng
trách nhiệm. Ngay trong những dòng đầu tiên của Hiến chế mục vụ về “Giáo Hội
trong thế giới hôm nay”, Công đồng long trọng xác quyết mối liên đới của
Giáo Hội với con người và thế giới hôm nay: “Nỗi vui mừng và niềm hy vọng,
những buồn khổ và âu lo của con người hôm nay, nhất là của những người nghèo và
của những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, buồn khổ và âu lo của các
môn đệ Đức Kitô. Không có gì đích thực nhân loại mà lại không có âm vang nơi
cõi lòng người môn đệ Đức Kitô”[10].
Công đồng
đặt nguyên tắc liên đới trên căn bản thần học về tạo dựng: “Thiên Chúa đã muốn
rằng tất cả mọi người làm thành một gia đình và đối xử với nhau bằng tình huynh
đệ. Thật thế, mọi người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, Đấng đã “tạo
thành họ từ một người duy nhất và cho họ ở trên khắp mặt đất” và họ cũng được
gọi tới cùng một cứu cánh duy nhất là chính Thiên Chúa”[11].
Nhân danh
tình huynh đệ đại đồng, Công đồng kêu gọi mọi người quảng đại chiến thắng cá
nhân chủ nghĩa và vụ lợi chủ nghĩa để mưu cầu công ích, đặc biệt cần nghĩ đến
nhu cầu của những người nghèo: “Mỗi người phải nhìn nhận và tôn trọng liên đới
như một trong những nghĩa vụ chính yếu của con người thời nay. Bởi vì thế giới
càng hợp nhất thì hiển nhiên những bổn phận của con người càng vượt lên trên
những nhóm riêng rẽ và dần dần sẽ lan rộng tới toàn thế giới”[12].
Công đồng
ghi nhận giá trị tích cực của các hợp tác quốc tế trong lãnh vực kinh tế. Nhưng
để sự hợp tác này đem lại phúc lợi cho mọi người, đặc biệt cho các nước nghèo,
trước tiên phải cố gắng thực hiện tình liên đới giữa các dân tộc. Đặc biệt,
“các dân tộc đã phát triển có trọng trách phải giúp đỡ các nước đang phát triển
(…). Do đó, khi giao dịch thương mại với các quốc gia yếu và nghèo hơn, các
nước giàu cần quan tâm đặc biệt đến lợi ích của các nước nghèo, bởi vì các nước
này sống tùy thuộc vào nguồn lợi từ những sản phẩm bán ra”[13].
Thông điệp
“Phát triển các dân tộc” (1967) của Giáo chủ Phaolô VI quan tâm đến
vấn đề phát triển và liên đới giữa các dân tộc, giữa một thế giới đang quốc tế
hóa các vấn đề kinh tế. Ngay ở số đầu tiên, thông điệp đã nêu rõ mối quan tâm
của Giáo Hội: “Phát triển các dân tộc, nhất là các dân tộc đang cố gắng thoát
khỏi đói nghèo, lầm than, bệnh tật, ngu dốt”[14]. Trước hố cách biệt giàu nghèo quá sâu thẳm và quá phi
nhân, “các dân tộc đói khổ đang cật vấn các dân tộc giàu sang một cách bi thảm.
Giáo Hội run rẩy trước tiếng kêu bi thảm và mời gọi mọi người đáp trả lời kêu
cứu của anh em mình bằng tình yêu”[15].
Phát triển
con người toàn diện và mọi dân tộc là chủ đề của thông điệp. Đây là một sứ vụ
khó khăn và là trách nhiệm của mọi người. Bởi vì, “mọi người là thành phần của
xã hội và thuộc về toàn thể nhân loại. Vì vậy, không phải chỉ là người này hay
người kia, mà là tất cả mọi người đều được mời gọi thực hiện phát triển toàn
diện (…). Được thừa hưởng từ các thế hệ đi trước và đang thụ hưởng thành quả
lao động của những người đương thời, chúng ta có trách nhiệm đối với tất cả và
chúng ta không thể thờ ơ với những người đến sau chúng ta để nới rộng đại gia
đình nhân loại. Liên đới phổ quát là một hiện thực, một lợi ích cho mọi người
và đồng thời là một trách nhiệm”[16].
Trong
chiều hướng đó, thông điệp đề cập đến trách nhiệm liên đới trên bình diện cá
nhân cũng như quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển. Theo thông điệp,
“mỗi dân tộc đương nhiên được ưu tiên hưởng dụng tài nguyên do Chúa Quan phòng
ban tặng, cũng như các thành quả của lao động, nhưng chẳng một dân tộc nào có
quyền giữ lấy tài sản đó để hưởng dụng một mình mà thôi. Mỗi dân tộc phải sản
xuất nhiều hơn và tốt hơn để tạo cho người dân một mức sống thực sự nhân bản,
và đồng thời để cống hiến cho nhân loại một sự phát triển liên đới. Đối diện
với việc gia tăng về tình trạng đói khổ nơi các nước chậm phát triển, phải coi
là chuyện bình thường khi một nước phát triển tặng một phần sản lượng của mình
để thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của các nước nghèo. Cũng là chuyện bình thường
khi một nước phát triển đào tạo giáo viên, kỹ sư, chuyên viên, trí thức biết
đem kiến thức và chuyên môn phục vụ các nước nghèo”[17].
Đức Giáo
chủ Phaolô VI cũng ước mong một trật tự mới và một thế giới tốt đẹp hơn. Nhưng
để cho ước mơ đó sớm thành hiện thực thì liên đới phải là một bổn phận và hơn
nữa một bổn phận khẩn thiết cho mọi người. Ngài viết: “Trong hành trình này,
tất cả mọi người phải liên đới (…). Chúng ta có bổn phận nhắc nhở mọi người mức
độ rộng lớn của thảm kịch và tính cấp bách của sứ vụ phải thực hiện. Giờ hành
động đã điểm, bởi vì sự sống còn của bao trẻ em vô tội và hy vọng đạt tới điều
kiện nhân bản của biết bao gia đình nghèo khổ, hòa bình của thế giới và tương
lai của nền văn minh đang lâm nguy. Tất cả mọi người và mọi dân tộc phải đảm
nhận trách nhiệm của mình”[18].
9.3- Liên đới, một nhân đức Kitô giáo
Nhân dịp kỷ niệm 20 năm ban hành thông điệp “Phát triển các dân
tộc”, Giáo chủ Gioan Phaolô II công bố thông điệp “Quan tâm đến vấn đề xã
hội”(1987). Xoay quanh lý tưởng liên đới và tương quan giữa thái độ liên
đới với phát triển, Đức Gioan Phaolô II đã phác họa bức tranh toàn cảnh về thế
giới hiện đại, đầy ánh sáng và bóng tối, đồng thời đưa ra những đề nghị nhằm
thăng tiến con người cũng như các dân tộc.
Dưới ánh sáng của Tin Mừng, thông điệp Quan tâm đến vấn đề xã hội định nghĩa liên đới theo một cái nhìn mới:
“Hành động liên đới không phải là một thứ tình cảm mơ hồ hay xúc động hời hợt
trước những khổ đau của bao nhiêu người xa gần. Ngược lại, đó là quyết tâm chắc
chắn và bền vững dấn thân cho công ích, nghĩa là cho lợi ích của mọi người và
của từng người, bởi vì tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về mọi người. Một
quyết tâm như vậy dựa trên xác tín vững chắc rằng việc phát triển toàn diện
đang bị cản trở bởi lòng ham muốn lợi nhuận và khát khao quyền lực. Chỉ có thể
chiến thắng những thái độ và những “cơ cấu tội lỗi” ấy – dĩ nhiên là với ơn
Chúa – nhờ một thái độ hoàn toàn đối nghịch: Dấn thân phục vụ lợi ích của tha
nhân, sẵn sàng chết, theo tinh thần Tin Mừng, cho người khác thay vì bóc lột họ
và “phục vụ” thay vì đàn áp họ để mưu cầu tư lợi”[19].
Đề tài liên
đới này, trước tiên được áp dụng cho lãnh vực kinh tế – xã hội. Đây là lãnh vực
khó khăn và nan giải nhất, nhưng cũng chính ở nơi đây tình liên đới mới mang
tính chất hiện thực và hữu hiệu. Trong phạm vi quốc gia, “việc thi hành tình
liên đới trong mỗi xã hội chỉ hiện thực khi các thành viên
nhìn nhận nhau như nhân vị. Những người có nhiều của cải, cần
ý thức trách nhiệm đối với những người yếu kém hơn và sẵn sàng chia sẻ với họ
tài sản của mình. Trong cùng một chiều hướng liên đới, những người kém may mắn,
không được chọn lựa thái độ thuần túy thụ động hoặc phá hủy mối tương quan xã
hội. Ngay cả khi tranh đấu cho những quyền lợi chính đáng của mình cũng cần thể
hiện trách nhiệm của mình đối với công ích. Về phần mình, những nhóm trung gian
không được nhấn mạnh một cách ích kỷ quyền lợi riêng của mình, mà cần tôn trọng
quyền lợi của những người khác”.
Thông điệp
nhìn thấy một số hình thức liên đới mới mẻ và tích cực trong thế giới hôm nay:
“Sự gia tăng ý thức về tình liên đới giữa người nghèo với nhau, các sáng kiến
của họ để ủng hộ nhau, các cuộc biểu tình công khai bất bạo động trên diễn đàn
xã hội để đòi hỏi quyền lợi và nhu cầu của họ, trước sự bất lực và thối nát của
nhà cầm quyền. Vì dấn thân theo Tin Mừng, Giáo Hội cảm thấy được mời gọi đứng
về phía quần chúng nghèo đói này để phân biện tính công lý trong những yêu sách
này và góp phần thỏa mãn chúng, mà không lãng quên lợi ích của các nhóm khác
trong khuôn khổ công ích”[20].
Trong một
thế giới ngày càng toàn cầu hóa như ở thời đại chúng ta, không một quốc gia nào
có thể tự mình giải quyết được mọi vấn đề. Do đó, vấn đề phát triển toàn diện
trong tình liên đới chỉ có thể thực hiện được khi có sự cộng tác của các nước
trên thế giới, nhất là các nước giàu. Thông điệp đề nghị phải làm sao để “việc
đồng lệ thuộc (giữa các nước trên thế giới) biến thành liên đới, dựa trên
nguyên tắc vận mệnh phổ quát của tài sản: Tất cả những gì mà
công nghiệp sản xuất, bằng cách biến chế nguyên liệu thiên nhiên với sự đóng
góp của lao động con người, phải phục vụ lợi ích của mọi người”.
Từ viễn
cảnh đó, Giáo chủ Gioan Phaolô II mời gọi các nước giàu mạnh nhất thế giới biết
vượt qua chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi để “ý thức trách nhiệm
đạo đức đối với các nước khác, với mục tiêu thiết lập một cơ cấu quốc tế đích
thực, xây dựng trên sự bình đẳng giữa mọi dân tộc và trên nghĩa vụ tôn trọng sự
khác biệt hợp pháp của các dân tộc. Các nước yếu kém nhất về mặt kinh tế hoặc
đang ở ranh giới của sự sống còn, cần được các nước khác và cộng đồng quốc tế
hỗ trợ, nhưng chính họ cũng có thể đóng góp cho công ích bằng kho tàng nhân bản
và văn hóa của mình”[21]
Theo
truyền thống lâu đời của Kitô giáo, nguyên tắc liên đới nối kết một cách sâu
thẳm với nguyên tắc công thiện công ích và định mệnh phổ quát của tài sản.
Chính vì vậy, sau khi đã tỉ mỉ phân tích ý nghĩa và trách nhiệm của liên đới ở
lãnh vực vi mô cũng như vĩ mô, thông điệp “Quan tâm đến vấn đề xã hội” viết
thêm: “Thiết tưởng cần nhắc lại một lần nữa nguyên tắc đặc biệt của Giáo huấn
xã hội Kitô giáo: Ban đầu, tài sản của thế giới được trao phó cho mọi người. Dù
quyền tư hữu hợp pháp và cần thiết đến đâu đi chăng nữa, cũng không hủy bỏ giá
trị của nguyên tắc nói trên. Thật vậy, trong quyền tư hữu đã khắc ghi một “cầm
cố xã hội”, nghĩa là được nhìn nhận, như phẩm chất nội tại, một trách nhiệm xã
hội được xây dựng và biện minh một cách thực sự nơi nguyên tắc định mệnh phổ
quát của tài sản”[22].
Giáo chủ
Gioan Phaolô II ý thức rõ rệt việc tiến tới lương tâm mới về liên đới, nhất là
trên bình diện quốc tế, là “một con đường dài và đầy trắc trở. Hơn thế nữa, con
đường này thường xuyên bị đe dọa bởi tính mong manh nội tại của các dự án và
việc thực hiện của con người, cũng như bởi sự thay đổi khôn lường của hoàn cảnh
ngoại tại. Tuy nhiên, theo ngài, cần nhất quyết dấn thân thực hiện và ở nơi nào
đã đi được một vài bước, ngay cả khi chỉ mới thực hiện được một phần nhỏ, phải
tiếp tục thực hiện cho đến cùng”[23].
Sâu xa và
quan trọng hơn, liên đới không phải chỉ là những điều kiện cần thiết cho công
cuộc phát triển con người toàn diện, mà hơn nữa còn là một “thái độ luân lý”
và “một nhân đức Kitô giáo”. Sau khi đề cập đến điểm tương
đồng giữa tình yêu và liên đới, Đức Gioan Phaolô II viết thêm mấy dòng thật sâu
sắc và thâm thuý về liên đới. Vì tính chất độc đáo của vấn đề, chúng tôi xin
trích dẫn hai đoạn chính sau đây:
“Dưới ánh
sáng đức tin, liên đới vươn tới việc vượt qua chính mình, để mặc lấy những
chiều kích đặc thù của Kitô giáo về thái độ hoàn toàn vô vị lợi, thứ tha và hòa
giải. Như vậy, tha nhân không chỉ là một hữu thể nhân loại, có quyền lợi và sự
bình đẳng nền tảng với mọi người, nhưng trở thành hình ảnh sống động của
Thiên Chúa (...). Do đó, tha nhân phải được yêu mến, ngay cả khi họ là thù
địch, bằng chính tình yêu mà Chúa đã yêu thương họ, và phải sẵn sàng hy sinh
cho họ, ngay cả với hành động cực độ: “Thí mạng sống vì anh em mình”[24].
“…Vượt
trên những liên hệ nhân bản và tự nhiên, vốn rất mãnh liệt và chặt chẽ, dưới
ánh sáng đức tin người ta nhận dạng một kiểu mẫu mới về hợp nhất nhân
loại, mà cuối cùng sẽ tạo cảm hứng cho liên đới. Kiểu mẫu hiệp
nhất tối cao này, phản ảnh đời sống nội tại của một Thiên Chúa duy
nhất trong Ba Ngôi, chính là điều mà Kitô hữu chúng ta gọi là hiệp
thông (…). Vậy, liên đới phải góp phần thực hiện kế hoạch của Thiên
Chúa, ở phạm vi cá nhân cũng như trên bình diện quốc gia và quốc tế. Các “cơ
chế đồi truỵ” và các “cơ cấu tội lỗi” chỉ có thể bị đánh
bại bằng việc thực hành liên đới nhân bản và Kitô giáo. Chỉ bằng cách đó mà
nhiều năng lực mới có thể được tận dụng một cách trọn vẹn cho công cuộc phát
triển và hòa bình”[25].
Ngỏ lời
với các tham dự viên trong phiên họp khoáng đại lần II của Hàn lâm viện Giáo
hoàng về Xã hội, Đức Gioan Phaolô II tuyên bố: “Cuộc cạnh tranh chính đáng đang
năng động hóa đời sống kinh tế không được chống lại quyền lợi căn bản của con
người là có việc làm để nuôi sống gia đình. Thật vậy, làm sao gọi một xã hội là
giàu có, nếu trong đó nhiều người không có điều kiện cần thiết để sống? Bao lâu
một con người bị tổn thương và biến dạng vì nghèo đói, thì chính xã hội, trong
một nghĩa nào đó, cũng bị tổn thương”.
9.4-
Liên đới trong thời toàn cầu hóa
Như chúng
tôi đã trình bày ở trên, Giáo huấn xã hội của Giáo Hội công nhận toàn cầu hóa
là một thực tại lịch sử, nhưng vẫn không ngừng mời gọi nhân loại cố gắng loại
bỏ mặt trái bi thảm của toàn cầu hóa. Vì vậy, Giáo Hội vẫn không ngừng nêu lên
thách đố cho thời đại là làm sao xây dựng một toàn cầu hóa bớt loại trừ và một
xã hội thực sự liên đới? Làm sao để mô hình toàn cầu hóa hiện tại sẽ đem lại
phúc lợi và vận may cho nhiều người hơn? Thông điệp và diễn văn của Giáo chủ
Biển Đức XVI sẽ giúp chúng ta tiếp tục đào sâu vấn đề quan trọng này.
Mấy năm
gần đây, đầu tư vào nông nghiệp đang ở mức rất cao trên thế giới. Nhưng điều
đáng lo ngại là sự mất quân bình trầm trọng về an ninh lương thực cũng tăng
theo, bởi vì nhu cầu về lương thực tiếp tục gia tăng do sự thay đổi trong ẩm
thực, do thu nhập gia tăng ở các thị trường mới nổi, do một số chính phủ và tập
đoàn lớn đang tìm cách sở hữu đất đai ở các nước nghèo để đảm bảo an ninh lương
thực cho nước họ hay để tạo ra năng lượng sinh học từ cây lương thực với mục
đích kiếm nhiều tiền hơn… Ngỏ lời trước Hội nghị Thượng đỉnh về an ninh lương
thực của tổ chức Lương – Nông thế giới (FAO), Giáo chủ Biển Đức XVI đã thẳng
thắn nêu vấn đề đau lòng và phi lý nhất của thời đại: Tại sao ở thời đại toàn
cầu hóa, giữa lúc nhân loại có nhiều của cải và khả năng kỹ thuật nhất để tận
diệt nghèo đói, thì số người bị đói lại tăng cao nhất? Đâu là nguyên nhân và
giải pháp cho vấn đề nhức nhối này?
Sau những
lời chào nghi thức , Giáo chủ Biển Đức XVI đã đi thẳng vào vấn đề nhận diện
nguyên nhân gây nên nạn đói và đề nghị một số giải pháp: “Trong những năm gần
đây, cộng đồng quốc tế phải đương đầu với cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh
tế và tài chánh. Các thống kê cho thấy sự gia tăng bi thảm số người bị
đói. Góp phần vào tình trạng này có việc tăng giá lương thực, sự suy
giảm khả năng kinh tế của tầng lớp dân chúng nghèo nhất, việc thu hẹp khả năng
tiếp cận thị trường cũng như thực phẩm. Tất cả những điều đó xảy ra giữa lúc
người ta xác nhận rằng Trái đất có khả năng nuôi sống tất cả mọi người dân trên
thế giới. Thật vậy, cho dù tại một số miền, sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục ở
mức độ thấp, đôi khi do thay đổi khí hậu, nhưng nói chung nông sản thế giới đủ
để thỏa mãn nhu cầu hiện nay cũng như nhu cầu có thể dự kiến trong tương lai.
Những dữ kiện đó chứng tỏ nạn đói không phải do sự gia tăng dân số, và chúng ta
càng thấy rõ điều đó qua sự kiện đáng tiếc là người ta tiêu hủy lương thực để
bảo toàn lợi tức”[26].
Ngay trong
thông điệp “Tình yêu trong chân lý” ban hành mấy tháng trước đó,
Đức Giáo chủ cho rằng sự yếu kém về cơ cấu xã hội – chính trị – kinh tế trên
mức độ toàn cầu là nguyên nhân chính của tình trạng khủng hoảng hiện nay. Theo
thông điệp, “nạn đói ít tùy thuộc vào việc thiếu tài nguyên vật chất cho bằng
thiếu các tài nguyên xã hội, trong đó quan trọng hơn cả là thiếu về cơ chế.
Thực vậy, hiện đang thiếu một tổ chức về các cơ cấu kinh tế có khả năng bảo đảm
lương thực và nước uống một cách thường xuyên và thích hợp, cũng như có thể đáp
ứng các nhu cầu căn bản và cấp thiết do cuộc khủng hoảng lương thực gây ra (…).
Vấn đề thiếu an ninh lương thực phải được cứu xét và giải quyết trong viễn cảnh
dài hạn, nhằm loại bỏ các nguyên nhân cơ cấu gây ra tình trạng ấy, đồng thời
thăng tiến sự phát triển nông nghiệp tại các nước nghèo nhất, qua sự đầu tư vào
những cơ cấu hạ tầng ở nông thôn, hệ thống dẫn thủy nhập điền, chuyên chở, tổ
chức thị trường, huấn luyện và phổ biến các kỹ thuật canh tác thích hợp, nghĩa
là có khả năng sử dụng tốt nhân lực, cũng như các tài nguyên thiên nhiên và tài
nguyên kinh tế xã hội dễ tìm thấy nhất tại địa phương, bằng cách bảo đảm cho
chúng sự bền vững trong dài hạn”[27].
Chủ trương
liên đới được coi là một con đường thích hợp để giúp các nước nghèo sớm thoát
khỏi tình trạng chậm tiến và tránh những căng thẳng xã hội hiện nay. Tuy nhiên,
bên cạnh viện trợ kinh tế và kỹ thuật, cần phải có những canh tân về cơ cấu xã
hội – chính trị thích hợp[28]. Rất tiếc nhân loại vẫn thiếu một cơ cấu xã hội – chính
trị phù hợp với giai đoạn toàn cầu hóa, cho nên nhiều chương trình và kế hoạch
của cộng đồng quốc tế chưa có hiệu năng và chưa trả lời cho yêu sách của thời
đại. Do đó, “cho dù các nước nghèo nhất ngày nay được hội nhập vào nền kinh tế
thế giới nhiều hơn so với trước kia, nhưng cách thức vận hành của thị trường quốc
tế làm cho các nước này dễ bị tổn thương hơn và buộc họ phải cần đến sự trợ
giúp của các tổ chức liên chính phủ, dù rằng các cơ quan này mang lại một sự hỗ
trợ quý giá và không thể thiếu được”[29].
Để chương
trình liên đới trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế đạt được hiệu quả, Đức
Biển Đức XVI đề nghị, một mặt, cần duyệt xét lại những hình thức tài trợ cho
nông phẩm đang gây xáo trộn trầm trọng cho lãnh vực nông nghiệp và những hình
thức đầu tư duy lợi nhuận đặt lương thực ngang hàng với các loại hàng hóa khác;
mặt khác, các chương trình hợp tác cần đếm kể đến nguyên tắc bổ trợ và phải làm
sao để có sự tham gia tích cực của xã hội dân sự. Bản văn sau đây của thông
điệp “Tình yêu trong chân lý” cho thấy rõ hơn vấn đề:
“Nguyên
tắc bổ trợ cần liên kết chặt chẽ với nguyên tắc liên đới và ngược lại, bởi
vì bổ trợ mà thiếu vắng liên đới thì sẽ rơi vào một thứ địa phương xã hội,
trong khi đó liên đới mà không có bổ trợ sẽ dẫn đến một thứ trợ cấp xã hội, dễ
hạ giá những người túng thiếu. Cần lưu ý đến quy luật tổng quát nói trên, nhất
là khi đối diện với những vấn đề liên hệ đến viện trợ quốc tế cho phát
triển (…). Viện trợ kinh tế, để thực sự giữ được bản chất của nó,
không được theo đuổi những mục đích phụ. Viện trợ này được trao tặng không
những với sự tham gia của chính quyền những nước tiếp nhận, mà còn với các tác
nhân kinh tế địa phương và những người hoạt động văn hóa trong xã hội dân sự,
bao gồm cả các Giáo Hội địa phương. Các chương trình viện trợ phải ngày càng
mang đặc tính hội nhập và tham gia từ cơ sở. Nên lưu ý rằng tài nguyên có giá
trị nhất trong các nước đang phát triển chính là nguồn vốn con người: Đó chính
là tư bản đích thực cần làm tăng trưởng để đảm bảo cho các nước nghèo nhất một
tương lai độc lập thực sự. Cần nhớ rằng, trong lãnh vực kinh tế, hình thức viện
trợ chính mà các nước đang phát triển cần thiết đó là cho phép và khuyến khích
việc từng bước đưa sản phẩm của họ vào thị trường quốc tế, nhờ vậy các nước này
có thể tham gia vào đời sống kinh tế quốc tế”[30].
Chiều kích
liên đới cũng bao hàm trách nhiệm liên đới với thế hệ tương lai. Chính ở nơi
đây cần đặt lại mối tương quan giữa phát triển và bảo vệ môi trường. “Các dự án
phát triển nhân bản toàn diện không thể lãng quên các thế hệ tương lai,
nhưng phải xây dựng trên tình liên đới và công bằng liên thế hệ, bằng
cách để ý đến các chiều kích đa diện: môi sinh, pháp lý, kinh tế, chính trị,
văn hóa”[31].
Dưới cái
nhìn của Giáo huấn xã hội Công giáo, liên đới có một mối tương quan rất mật
thiết, phong phú và độc đáo với tình yêu: liên đới giả thiết công bằng, nhưng
đi xa hơn công bằng để vươn tới tình yêu. Từ quan điểm Kitô giáo, Giáo chủ Biển
Đức XVI đã cống hiến cho chúng ta một suy tư thần học thật sâu sắc và thâm
thúy: “Liên đới được năng động hóa bởi tình yêu thì vượt qua công
bằng, bởi vì yêu thương là trao tặng, dâng hiến “điều thuộc về tôi” cho
người khác. Liên đới chẳng có thể hiện hữu khi vắng bóng công
bằng. Chính công bằng thúc đẩy ta trả lại cho người khác “điều
thuộc về họ” và điều thuộc về họ theo phương diện hữu thể cũng như
hành động. Thật thế, tôi không thể trao tặng người khác “điều thuộc về
tôi” mà trước tiên không trả lại cho họ điều thuộc về họ theo công
bằng. Nếu muốn hướng tới việc loại trừ nạn đói thì hoạt động quốc tế không
những phải ưu đãi một tăng trưởng kinh tế quân bình và bền vững cũng như ổn
định chính trị, mà còn tìm kiếm những tham số mới – thiết yếu là đạo
đức, kế đó là pháp lývà kinh tế – có khả
năng gây cảm hứng để sáng tạo một mô hình hợp tác có thể tạo nên mối tương quan
bình đẳng giữa những quốc gia có mức độ phát triển khác biệt nhau”[32].
Một lần
nữa Giáo chủ tái khẳng định hành động dấn thân cố hữu của Giáo Hội để khích lệ
phát triển toàn diện cũng như để chống lại nghèo đói. “Nạn đói là dấu hiệu tàn
ác nhất và cụ thể nhất của nghèo đói. Không thể tiếp tục chấp nhận cuộc sống
sung túc và hoang phí khi thảm cảnh của nghèo đói ngày càng bành trướng (…).
Giáo Hội Công giáo luôn quan tâm đến những cố gắng chống đói. Giáo Hội luôn
luôn hỗ trợ những nỗ lực chống đói. Giáo Hội luôn ủng hộ, bằng lời nói và hành
động, các hoạt động liên đới mà tất cả các thành viên của Cộng đồng quốc tế
được mời gọi thực hiện. Giáo Hội không chủ trương can thiệp vào những lựa chọn
chính trị. Tôn trọng kiến thức và thành quả khoa học, cũng như những chọn lựa
theo quyết định của lý trí (…), Giáo Hội liên kết các cố gắng với nhau để loại
trừ nạn đói. Đó là dấu hiệu trực tiếp và cụ thể nhất của liên đới được năng
động hóa bởi tình yêu (…). Tình liên đới này đặt tin tưởng nơi kỹ thuật, pháp
luật và các cơ cấu để trả lời cho khát vọng của các cá nhân, các cộng đồng và các
dân tộc, nhưng nó cũng không loại trừ chiều kích tôn giáo, một chiều kích ẩn
chứa sức mạnh tâm linh có khả năng phục vụ sự thăng tiến của con người”[33].
[3] Marciano Vidal, “La solidariedad: Nueva frontera de la teologia moral”, in Studia Moralia, XXIII/1, (1985), 117.
[4] Xem E.
Levinas, Difficile liberté.
Essais sur le judaisme, Paris, 1963,
tr. 376; Autrement qu’être ou
au delà de l’essence, La Hay, 1974;
P. Ricoeur, Soi-même comme un
autre, Seuil, Paris, 1990,
tr. 226.
[18] Ibidem, số 80. Tại Liên Hiệp Quốc, Giáo chủ Phaolô VI đã thẳng
thắn đặt vấn đề với các nhà lãnh đạo các quốc gia như sau: “Nghĩa vụ của quý vị
là làm cho quý quốc liên đới chặt chẽ hơn với mọi người; thuyết phục họ bằng
lòng trích một phần xa hoa và hoang phí của họ để xúc tiến công cuộc phát triển
các dân tộc và bảo vệ hòa bình. Lệ thuộc rất nhiều ở quý vị, những vị đại diện
trong các cơ quan quốc tế, để có thể thay thế những cuộc đụng độ bằng vũ lực
nguy hiểm và vô bổ bằng sự hợp tác thân hữu, ôn hòa và vô vị lợi, ngõ hầu nhân
loại đạt tới một phát triển liên đới, trong đó mọi người có thể phát triển”.
[24] Sau Đức Kytô (x. Ga 15,13), thông điệp
nhắc đến chứng từ của rất nhiều thánh nhân, đặc biệt thánh Phêrô Claver, với
hành động dấn thân phục vụ người nô lệ tại Cartagena ở châu Mỹ Latin và thánh
Maximilianô Maria Kolbe, người tình nguyện chết thay cho một tù nhân không quen
biết tại trại tập trung Auschwitz của Đức quốc xã.
[28] Kinh tế
gia Jeffrey Sachs, Đại học Columbia của Hoa Kỳ, cũng cho rằng khủng hoảng hiện
tại là thiếu những tổ chức điều phối thích hợp. Theo ông, cần phải tạo ra tổ
chức quốc tế mới tương tự như các tổ chức đã ra đời vào những năm 1970, chẳng
hạn như Quĩ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD – International Fund for
Agricultural Development), Nhóm tài trợ cho các nghiên cứu nông nghiệp quốc tế
(CGIAR – Consultative Group for International Agricultural Research)... Ngay từ
đầu năm 2008, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã đề xuất một sự hợp tác toàn
cầu về an ninh lương thực, gắn kết với một ủy ban của Liên Hiệp Quốc và một cơ
quan đặc nhiệm cấp cao thuộc Văn phòng Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét