Chương này
sẽ trình bày một số nét tiêu biểu về tư tưởng của các thánh Giáo phụ, các thánh
Tiến sĩ và các thần học gia Kitô giáo. Đây là một thời kỳ dài trải rộng từ thế
kỷ thứ IV cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là cho đến lúc Giáo huấn xã hội được
chính thức công bố qua thông điệp “Tân Sự” (1891).
3.1- Các Giáo phụ với công bằng xã hội
Các Giáo
phụ đào sâu sứ điệp xã hội của Kinh Thánh và mạnh mẽ lên tiếng tố cáo tình
trạng bất công xã hội. Đồng thời, các vị cống hiến cho Giáo Hội nhiều suy tư và
giải pháp tích cực trong việc tranh đấu cho quyền lợi của người nghèo, theo
tinh thần Kitô giáo. Hai chủ đề người ta thường gặp thấy trong các bài viết và
bài giảng của các vị là: vận mệnh phổ quát của tài sản và người
nghèo có quyền dự phần vào tài sản chung của nhân loại.
Trung
thành với sứ điệp xã hội của Kinh Thánh, các Giáo phụ không ngừng lặp lại luận
điểm căn bản: Thiên Chúa là sở hữu chủ của tất cả tài sản và Người ban
tặng nó cho mọi người. Do đó, không ai là sở hữu chủ tuyệt đối trên những
gì mình đang chiếm giữ. Đúng ra, những người giàu chỉ giữ vai trò quản lý đối
với tài sản chung của nhân loại. Vì thế, họ có nhiệm vụ chia sẻ tài sản đó với
anh em đồng loại[1].
Sống trong
một nền kinh tế nông nghiệp, khi mà tăng trưởng kinh tế thường là số không, các
Giáo phụ rất dị ứng với cảnh giàu sang, vì nghĩ rằng để một người giàu lên thì
nhiều người sẽ phải nghèo đi. Chính trong viễn ảnh đó, thánh Basiliô thẳng thắn
cật vấn người giàu: “Bạn không phải là kẻ trộm đó sao? Tiền của trao cho bạn
quản trị, bạn lại chiếm hữu. Kẻ trấn lột người khác được gọi là tên cướp, còn
người không cho kẻ rách rưới mặc, khi anh ta có thể làm được điều đó, thì có
xứng đáng mang một tên gọi khác chăng?
Chiếc bánh
mà bạn cất giữ thuộc về người đói. Áo khoác mà bạn cất kỹ trong rương là của
người trần trụi. Giày để mốc meo trong nhà bạn là giày của người chân không.
Tiền bạc bạn chôn giấu thuộc về người cùng khổ”[2].
Thánh
Gioan Kim Khẩu đã nêu câu hỏi thời danh về nguồn gốc của tài sản và theo ngài
luôn luôn có cái gì bất ổn hay mờ ám trong nguồn gốc này: “Bạn hãy nói cho tôi
biết nguồn gốc tài sản của bạn? Bạn đã lãnh nhận nó từ tay ai? Và kẻ đó đã nhận
nó từ người nào? Người ta sẽ trả lời: từ ông, từ cha. Nếu thế, cứ đi ngược lên
các thế hệ, bạn có thể chứng minh quyền sở hữu của ông ta là chính đáng không?
Có lẽ bạn không làm nổi đâu, vì nguyên lý và cội rễ của nó nhất thiết là một sự
kiện bất công nào đó. Tại sao? Bởi vì, từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã không làm
nên kẻ này giàu, người kia nghèo (...). Người đã cho tất cả mọi người cùng một
Trái đất. Do đó, nó là của chung, vậy thì tại sao bạn đã dư thừa ê hề của cải,
trong khi láng giềng của bạn lại chẳng có một đồng xu dính túi?”
Theo thánh
nhân, mỗi người có quyền sử dụng của cải trần gian để thỏa mãn nhu cầu chính
đáng của bản thân và của gia đình. Tất cả những gì còn lại thuộc về người nghèo
và chúng ta có trách nhiệm chuyển giao những của cải đó cho họ: “Không chia sẻ
cho người nghèo của cải thuộc về họ là ăn cắp và cướp lấy mạng sống của họ. Của
cải chúng ta đang chiếm giữ, không phải là của chúng ta, nhưng là của họ” (Laz.
1,6). Sâu thẳm hơn, ngài yêu cầu các tín hữu thể hiện hành động bác ái - yêu
thương và cố nhận diện khuôn mặt của Đức Kitô nơi những người nghèo khổ. Trong
đời sống tôn giáo, cần đề cao giá trị tâm linh và nhân bản trên việc xây dựng
những đền đài vật chất. Ngài nói: “Bạn muốn tôn vinh Thân thể Đức Kitô ư? Vậy
đừng ngoảnh mặt làm ngơ khi thấy Người trần trụi. Xin đừng tôn thờ Người ở đây,
trong thánh đường, đầy nhung lụa gấm vóc, trong khi lại bỏ mặc Người ở bên
ngoài, trần truồng và giá lạnh. Đấng đã tuyên bố: “Này là mình Thầy”, cũng
chính là Đấng đã nói: “Anh thấy Tôi đói mà không cho ăn”(...). Nào có ích gì
nếu bàn tiệc Thánh thể đầy những bình bằng vàng, trong khi chính Chúa đang chết
đói? Hãy lập tức làm dịu cơn đói của Người và sau đó, với những gì còn sót lại,
bạn sẽ trang hoàng bàn thờ”[3].
Bên phương
Tây, thánh Ambrosiô cũng luôn lặp đi lặp lại nguyên tắc căn bản: Trái đất là
gia tài chung và tặng vật để mọi người cùng hưởng dụng, người giàu cũng như
người nghèo. “Thế nhưng, lòng tham đã phân chia ra quyền sở hữu. Đòi cho riêng
mình cái thuộc về toàn thể nhân loại hay đúng hơn, cái dành cho mọi sinh vật,
cũng có thể được coi là chính đáng, nếu như ngươi biết chia sẻ ít nhất một phần
cho những người nghèo”.
Thánh Giám
mục Milano lấy lại quan điểm của thánh Basiliô và cho rằng người tham lam là
“người không bằng lòng với những nhu cầu cần thiết. Kẻ cướp là ai? Là người
cướp đoạt, vơ vét tài sản của người khác. Anh tưởng rằng anh không phải là kẻ
tham lam hay kẻ cướp sao? Của chung thiên hạ giao cho anh điều hành, anh lại
giữ lấy cho riêng mình, như thế không phải là tham lam, hoặc ăn cướp thì còn là
gì nữa? Lột áo kẻ khác là ăn cướp. Có dư áo mà thấy người khác ở trần cũng thây
kệ, thì cũng là một hình thức ăn cướp. Anh nên nhớ: gạo anh tích trữ trong kho
là gạo của người nghèo, áo anh cất trong tủ là áo của người trần trụi, giày anh
để mốc meo trong xó là giày của kẻ chân không”.
Dựa trên
lập luận và quan điểm thần học đó, thánh Grêgoriô Cả có lý để quả quyết: “Khi
trao tặng những thứ cần thiết cho người nghèo, chúng ta không làm vì lòng quảng
đại cá nhân, nhưng chỉ trả lại cho họ những gì thuộc về họ. Qua đó, chúng ta
chu toàn trách nhiệm công bằng hơn là thực hiện một hành vi bác ái”.
Đối với
thánh Augustinô, việc làm phúc bố thí, chia cơm sẻ áo là cần, nhưng chưa đủ.
Điều thiết yếu là phải làm sao để không còn ai nghèo đói và cũng chẳng cần ai
phải làm phúc cho ai. Xin trích dẫn một bản văn rất ý nghĩa và sâu sắc: “Chúng
ta không nên ước ao có những người nghèo khổ để có dịp làm phúc. Nếu bạn đem
cơm gạo cho kẻ đói ăn, tốt hơn là làm thế nào để chẳng còn ai đói khát, và bạn
sẽ không cần cho ai cả. Bạn cho người rách mặc, nhưng nếu ai cũng có áo thì
chẳng cần cho ai nữa... Tình yêu chân thật là ước muốn cho người khác được hạnh
phúc, không thiếu thốn gì cả... Vì nếu bạn muốn giúp đỡ người nghèo khổ có lẽ
bạn muốn coi mình hơn họ và coi họ kém bạn, vì cần đến bạn. Điều lý tưởng là
làm sao chẳng ai phải cần đến ai và tất cả chúng ta chỉ lệ thuộc vào Thiên Chúa
thôi”.
Bất chấp
những khó khăn và tình trạng tranh tối tranh sáng của thời Phong kiến, một số
vị hữu trách trong Giáo Hội đã cố gắng thực hiện sứ điệp xã hội nơi giáo huấn
của các Ngôn sứ và của chính Đức Kitô. Nhiều luật lệ và biện pháp cụ thể được
đưa ra nhằm thực hiện lý tưởng bác ái và huynh đệ của Kitô giáo.
Kể từ năm
321, Giáo Hội cho phép thâu nhận và quản lý tiền của do các tín hữu dâng cúng.
Người ta thường gọi những tài sản này là “tài sản của Thiên Chúa” hay “tài
sản của người nghèo”. Từ thế kỷ V, dưới thời Giáo chủ Simplicio (468- 483),
Giáo luật bắt buộc các vị lãnh đạo trong Giáo Hội phải chia cho người nghèo ¼
tài sản này. Một số Công đồng Miền được triệu tập trong thế kỷ V và VI còn xác
định hành động trợ giúp người nghèo nói trên là một bổn phận pháp lý. Ai giữ
lại những tài sản đó sẽ bị vạ và coi như một kẻ giết hại người nghèo (necator
pauperum).
Giáo chủ
Gregoriô Cả (590–604) áp dụng cho toàn thể Giáo Hội mệnh lệnh bắt buộc phải
chia cho người nghèo ít nhất ¼ lợi tức. Đối với các chủ chăn âm mưu tránh né
việc thi hành mệnh lệnh này, Công đồng Arles (836) tuyên bố: “Các chức sắc của
Giáo Hội cần biết rằng tài sản của Giáo Hội được giao phó cho các vị quản trị,
không theo tư cách là tài sản riêng, mà là tài sản của Chúa để thoả mãn nhu cầu
của tha nhân. Cũng cần biết rằng tài sản của Giáo Hội không có gì khác hơn là
những gì mà các tín hữu đã dâng cúng, như giá chuộc tội của họ và gia tài của
những người nghèo khổ”[4].
Với thời
gian, từ trong Giáo Hội đã hình thành nhiều tổ chức để cung cấp lương thực cho
những người đói khát, giáo dục trẻ em, chữa trị các bệnh nhân và săn sóc những
người già nua. Tại mỗi giáo xứ có nhà cứu trợ và tại trụ sở của mỗi giáo phận
có “Domus Dei” (Nhà Đức Chúa Trời). Đây là những trung tâm đón tiếp khách hàng
hương và chăm nuôi những người nghèo khổ, già nua, bệnh tật.
Giám mục
thường được gọi là “cha của người nghèo” và “trạng sư của những người
bé mọn”. Công đồng Toledo IV (633) tuyên bố: “Các Giám mục không được
từ chối trách nhiệm mà Thiên Chúa đã giao phó để bảo vệ và bênh vực dân chúng.
Bởi vậy, khi thấy các quan Tòa và những ông chủ trở thành kẻ thù của những
người nghèo, trước tiên, với tư cách Giám mục, phải khiển trách họ. Nếu họ
không muốn hối lỗi, thì trình lên nhà Vua thái độ cao ngạo đó, bởi vì những ai
mà không chịu thi hành công lý do lời cảnh cáo của Giám mục, thì hoặc là quyền
lực của nhà vua sẽ khuất phục họ hay sẽ bị coi là phạm nhân trước Công đồng”[5].
Để có thể
thi hành một cách hữu hiệu vai trò “người cha và người bênh vực những người
nghèo”, công đồng Macon (585) đã đưa thêm một số quyết định cụ thể: Các Tòa
Giám mục không nuôi chó. Các nghị phụ tuyên bố: “Chúng tôi muốn rằng các Tòa
Giám mục, do hồng ân của Chúa được xây dựng để niềm nở đón tiếp mọi người,
không hề có bất cứ sự phân biệt nào, không được nuôi chó. Phải làm sao để những
người tin tưởng tìm gặp nơi các Giám mục sự nâng đỡ cho cảnh khốn cùng của họ,
không rơi vào cảnh thân thể bị rách nát vì chó cắn. Bởi vì TòaGiám mục phải được bảo vệ bởi tình thương, chứ
không bằng bạo lực, bằng việc phước đức, chứ không bằng những vết cắn độc hại.
Do đó, thật là quái đản và bất kính, nơi mà danh Chúa luôn được ca tụng, lại có
chó dữ và chim săn mồi” (Can. 13).
3.2- Người nghèo giữa lòng Giáo Hội giàu sang
Rất tiếc,
với thời gian, tương tự nhiều tổ chức nhân loại khác, các tổ chức phục vụ người
nghèo của Giáo Hội đã bị biến chất và suy đồi! Các sử gia vẫn gọi thế kỷ X là “thế
kỷ sắt” của giáo triều, thế kỷ vô luân nhất trong tất cả lịch sử của
Giáo Hội. Với sự xuất hiện của “Nước Tòa Thánh”, cơ cấu của Giáo Hội đã biến
thành một “thế lực chính trị” và tài sản của Giáo Hội không còn là tài sản của
những người nghèo nữa, mà được dùng để phục vụ các thế lực chính trị và cuộc
sống vương giả của các chức sắc trong Giáo Hội. Vào giai đoạn này, nhiều bậc vị
vọng trong Giáo Hội thường chủ tâm kiếm tìm quyền bính, tiền bạc và đời sống
vương giả. Các vị bận tâm nhiều đến “tài sản của người nghèo” hơn
là “chính người nghèo”. Công tác phục vụ người nghèo không những giảm
dần và, hơn nữa, những quà tặng ít ỏi dành cho người nghèo thường chỉ tới tay
một nhóm người phần nào có liên hệ với Giáo Hội. Những người nghèo đích thực,
thê thảm và đáng thương nhất đã bị bỏ rơi.
Kể từ cuối
thế kỷ XI, dân số châu Âu tăng nhanh, thiên tai lụt lội và việc phát hành tiền
tệ đã làm tăng thêm số người lang thang và bị loại trừ. Rất nhiều trường hợp,
cảnh khốn cùng đã biến họ thành lớp người nguy hiểm. Người nghèo bấy giờ trở
thành lớp người đáng ngờ vực và gây âu lo. Nhiều người sống bên lề xã hội, du
thủ du thực, tụ tập trong những khu rừng hay kéo nhau về vùng ven đô để kiếm
sống qua ngày.
Tình trạng
căng thẳng xã hội và tôn giáo này nhiều lần đã bùng phát, một cách rất rõ nét,
qua các “phong trào người nghèo” suốt dọc thế kỷ XI và XII. Đây là một phong
trào phức tạp và dị nghĩa, trộn lẫn các lý do tôn giáo, chính trị, kinh tế và
xã hội. Nói chung, những phê phán trước đây thường được đưa ra để chống lại
người giàu, bấy giờ lại trở thành lời tố cáo chống lại nhà cầm quyền và hàng
Giáo phẩm. Nhưng có những trường hợp lời tố cáo gay gắt và cực đoan của phong
trào này đã dẫn đến bạo động hay ly giáo.
Dĩ nhiên,
phong trào người nghèo không chỉ là đất dụng võ của lạc giáo và các nhóm phản
kháng mà thôi, mà nó cũng là nguồn gốc của nhiều Hội Dòng và phong trào canh
tân trong Giáo Hội: như Joachim de Fiore, thánh Bernarđô, Stephano de Muret,
thánh Phanxicô khó nghèo, thánh Đa-Minh... là những khuôn mặt chính ở thời
Trung Cổ đã lựa chọn khó nghèo Tin Mừng và đồng hành với người nghèo giữa một
Giáo Hội giàu sang và quyền thế. Chúng ta có thể nói lý do của Tin Mừng và lý
do của người nghèo nối kết chặt chẽ với nhau trong chọn lựa của các vị. Khi đối
diện với một hàng giáo phẩm quá giàu sang giữa lúc đại đa số dân chúng sống
trong cảnh lầm than, nhiều nhà giảng thuyết cho rằng để có thể rao giảng Tin
Mừng của Đức Giêsu khó nghèo phải sống nghèo và phải đứng về phía người nghèo
như Người đã thực hiện.
Trong bối
cảnh lịch sử đặc biệt đó, nhiều thánh nhân đã lên tiếng yêu cầu cải tổ Giáo
Hội. Tiếng nói của các vị đôi khi rất gay gắt, na ná như ngôn từ của các ngôn
sứ trong Cựu Ước hay của “phong trào người nghèo” ở thời đó. Để dẫn chứng, xin
trích một bản văn của thánh Bernarđô, một bậc thầy tâm linh của thời Trung cổ.
Ngỏ lời với các Giám mục, thánh nhân thẳng thắn đặt vấn đề: “Những người trần trụi
kêu la, những người đói khổ chất vấn: Hỡi các chức sắc của Giáo Hội, các vị hãy
trả lời cho chúng tôi, tại sao các vị dùng vàng để làm thắng ngựa? Tại sao
không sử dụng vàng đó để giảm thiểu đói lạnh? Khi chúng tôi chết một cách thê
thảm vì đói rét, các vị làm gì với bao nhiêu áo bông thêu thùa lộng lẫy và cất
kỹ trong tủ? Thuộc về chúng tôi những gì các vị đã lấy một cách bất công. Những
gì các vị đang tiêu xài phung phí, các vị đã tước đoạt của chúng tôi một cách
dã man. Chúng tôi không phải là tạo vật của Thiên Chúa và được máu Đức Kitô cứu
chuộc như các vị sao?(...). Các vị đã
sử dụng cuộc đời chúng tôi để làm giàu. Tất cả những gì làm tăng thêm vẻ phù
hoa của các vị đã được lấy từ nhu cầu thiết yếu của chúng tôi. Và tật xấu luôn
phát sinh từ gốc rễ tham dục. Chính nó dẫn đưa các vị đến hư mất, trói ghì các
vị và đe dọa, trấn lột chúng tôi”[6].
Thánh
Bernarđô cũng cố gắng thuyết phục Giáo chủ Eugeniô III trở thành người bảo vệ
những người nghèo khổ, cô thân cô thế. Trong một lá thư rất thân tình gửi Đức
Giáo chủ, thánh nhân can đảm nêu lên những yêu sách mang tính ngôn sứ: “Sự lừa
đảo, gian manh, bạo động lộng hành khắp nơi trên mặt đất. Cường quyền ác bá thì
vô kể, còn người bảo vệ kẻ vô tội lại quá ít. Khắp nơi, người quyền thế áp bức
người nghèo. Chúng ta không thể nhắm mắt trước thảm trạng người áp bức người,
chúng ta không thể chối từ công lý cho những người đang gánh chịu bất công
(...). Không cần thiết ngài phải xét xử tất cả mọi trường hợp, nhưng những
trường hợp được đệ trình lên, ngài nên phân tích cẩn thận và đồng thời giải
quyết trong một thời gian ngắn. Ước mong sao sẽ đến tay ngài trường hợp của các
bà góa, của những người nghèo và của những người không có tiền để trả (quan
toà)! Những trường hợp khác có thể giao cho thuộc hạ”.
Để giảm
bớt tình trạng lầm than của người nghèo, các luật gia và luân lý gia cố gắng
đưa ra nhiều tiêu chuẩn đạo đức xây dựng trên công bằng và bác ái. Họ phân biệt
rõ rệt trường hợp ăn trộm vì thói xấu và ăn trộm vì đói khổ. Trường hợp sau
cùng này được đối xử một cách nhân từ và cảm thông, nhiều khi không bị qui
trách. Trước câu hỏi mang tính luân lý: Có được phép lấy của người khác để cứu
mạng sống trong trường hợp túng đói hay không? Nhiều luật gia và thần học gia
khẳng định là được, bởi vì mọi sự trở thành tài sản chung trong trường hợp khẩn
thiết do túng đói. Quan điểm này được Uguccio de Pisa công thức hóa như
sau: Theo luật tự nhiên, mọi sự là của chung, vì vậy trong trường hợp
khẩn thiết được sử dụng tài sản của người khác để cứu mạng sống[7].
Một số
thần học gia và các nhà giảng thuyết đã đào sâu đề tài khó nghèo và phẩm giá
của người nghèo từ viễn quan Kitô học. Hành động dấn thân tranh đấu cho quyền
lợi của người nghèo và đề cao nhân phẩm của họ không phải chỉ dựa trên lý do
nhân bản, mà trước hết và trên hết là do đòi hỏi của niềm tin Kitô giáo. Từ đó
nở rộ một trào lưu thần học lên án sự giàu sang của hàng Giáo phẩm và chủ
trương rằng sống khó nghèo theo tinh thần Tin Mừng là một điều kiện tất yếu để
bước theo Đức Kitô.
Theo
Hiduin (1188-1193), Đức Giêsu không những đã sống nghèo, mà hơn nữa “đã chọn
những người đơn sơ và dốt nát chứ không chọn các triết gia, mời gọi người nghèo
chứ không phải những người mặc áo gấm”. Raul Ardent nhấn mạnh tầm quan trọng
của một châm ngôn tu đức thời danh: “Nudus nudum Christum sequi” (trần
trụi để bước theo Đức Kitô trần trụi). Ông lấy khó nghèo tình
nguyện làm yếu tố căn bản của nền tu đức mới. Maurice de Sully (1160-1196),
Giám mục Paris, gọi những người nghèo hèn, bệnh tật, bé mọn là “gia nhân”
và “người thân cận” của Chúa[8].
Pièrre de Blois (1130-1200) đi xa hơn nữa. Ông gọi “người
nghèo là Đại diện của Đức Kitô”. Trong lá thư khá gay gắt, gửi một Giám mục
đã không thi hành việc phân phát tài sản cho người nghèo, ông viết: “Người
nghèo là đại diện của Đức Kitô. Chính vì thế Chúa đã đau lòng biết bao
khi thấy bị từ chối và khinh miệt trong người nghèo, đồng thời Người vui mừng
khi được đón nhận trong người nghèo. Do đó, nếu ngài mở kho lẫm của ngài cho
những người hành khất, ngài sẽ không bị lời chúc dữ: “Vô phúc cho ai giấu lương
thực của dân chúng”. Xin hãy rọng tay phân phát những gì mà ngài đã tham lam
tích lũy”[9].
3.3- Quan điểm của thánh Tôma Aquinô
Truyền
thống Kitô giáo đưa ra hai xác quyết đối nghịch: Quyền của người nghèo
được tham dự vào tài sản chungvà phải tôn trọng quyền tư hữu,
nhưng hầu như không bận tâm đến sự mâu thuẫn nội tại của chúng. Ở thời đó,
người ta chưa thấy một khảo luận nghiêm túc nào để đưa ra một giải thích nhất
quán về hai xác quyết căn bản nhưng hàm chứa sự mâu thuẫn và đối nghịch nhau. Thánh
Tôma Aquinô đã cố gắng đưa ra một giải thích hữu lý giữa vận mệnh phổ quát của
tài sản và quyền tư hữu.
3.3.1- Quyền lợi của người nghèo
Theo Tôma
Aquinô, bản tính con người được thể hiện đích thực trong mỗi cá nhân, nên quyền
tư hữu, cũng như tất cả các quyền khác, đều bắt nguồn nơi chính mỗi cá nhân,
chứ không phải nơi bất cứ quyền tập thể giả định nào của xã hội, được hiểu như
“pháp nhân”. Tuy nhiên, vì bản tính con người, tự bản chất, hàm chứa chiều kích
xã hội, quyền tư hữu này chỉ là một hình thức tham dự vào quyền tự nhiên và
công cộng. Về điểm này, Tôma Aquinô viết những dòng độc đáo: “Tính tập thể của
tài sản thuộc về quyền tự nhiên, không theo nghĩa là quyền này đòi hỏi rằng tất
cả mọi sự đều phải thuộc về tập thể và chẳng có gì riêng tư, mà có ý nói rằng
việc phân chia các hình thức chiếm hữu không thuộc về luật tự nhiên, mà phát
xuất từ quy ước của dân luật. Do đó, các hình thức tư hữu trong việc chiếm dụng
tài sản không tương phản với luật tự nhiên, trái lại bổ túc cho nó nhờ lý trí”[10].
Như vậy,
thay vì hủy bỏ tính tập thể tự nhiên của tài sản, tư hữu đã bổ túc và phong phú
hóa nó. Quyền lợi nguyên thủy của mọi người được tham dự vào tài sản chung,
nhất là khi rơi vào cảnh khốn cùng, vẫn tiếp tục hiện hữu. Tài sản của nhân
loại, ngay cả sau khi đã được tư hữu hóa, vẫn duy trì tính chất tập thể trong
việc sử dụng. Bản văn sau đây của tác giả nói rõ vị thế ưu tiên của quyền tự
nhiên đối với tài sản chung: “Những gì thuộc về luật lệ của con người thì không
thể vô hiệu hóa luật tự nhiên hay luật thần linh. Thế mà, theo luật tự nhiên,
được thiết lập do sự quan phòng thánh thiêng, thì những vật hạ đẳng phải nhằm
thỏa mãn nhu cầu của con người. Đây cũng là lý do nhằm giải quyết phần tài sản
mà một số người chiếm hữu một cách thừa thãi, phải được sử dụng để nuôi sống
người nghèo, theo luật tự nhiên. Đó cũng là điều mà nhiều người cho rằng thánh
Ambrosio đã nói và được trích dẫn trong các Sắc lệnh: “Bánh
anh tích trữ là bánh của người nghèo đói, áo anh cất trong tủ là áo của người
trần trụi, tiền bạc của anh là tiền chuộc và giải thoát những người khốn cùng,
nhưng anh chôn kỹ trong lòng đất”[11].
Tiếp nối
quan điểm của các Giáo phụ, thánh Tôma vẫn chủ trương tất cả những gì dư thừa
nơi tài sản của người giàu thuộc về người nghèo. Do đó, người giàu bắt buộc phải
phân phát của cải dư thừa này cho người nghèo. Thánh nhân coi đây là một một
nghĩa vụ thuộc đức công bằng.
Để hiểu rõ
hơn giải pháp dung hòa của Tôma giữa quyền tư hữu và quyền tự nhiên cho phép
người nghèo được tham dự vào tài sản chung của nhân loại, cần thiết một vài
phân biện nho nhỏ sau đây:
* Nếu chúng ta chỉ nhìn quyền lợi như hậu quả và hệ luận
của việc trao đổi, nghĩa là theo công bằng giao hoán, thì
người nghèo chẳng có quyền đòi hỏi gì cả, vì chẳng có gì để trao đổi. Tuy
nhiên, đây là một lối giải thích sai lầm, bởi vì đã giản lược tất cả các chiều
kích rộng lớn của công bằng vào công bằng giao hoán mà thôi.
* Ngược lại, nếu hiểu quyền lợi này theo công bằng
phân phối thì mọi người, với tư cách là thành viên của cộng đồng – xã
hội, đều có quyền tham dự vào tài sản chung và được nhận “phần riêng của
mình”. Vì thế, công bằng phân phối bao trùm một lãnh vực rộng lớn hơn
điều mà người ta thường nghĩ.
* Khi xác định những gì mà cộng đồng phải phân phối cho các
thành viên để mỗi người có thể sống một cách thỏa đáng, công bằng phân phối
không loại bỏ tất cả mọi hình thức bất quân bình tự nhiên (như sức khỏe, khả
năng thiên phú, tỉ lệ đóng góp…) để chủ trương một thứ “quân bình cào bằng”
theo kiểu bần cùng hóa. Tuy nhiên, cũng không thể chấp nhận hiện tượng cách
biệt quá sâu thẳm giữa giàu – nghèo, để duy trì và bảo vệ tình trạng « kẻ
ăn không hết, người lần không ra». Chính vì vậy, thánh Tôma đề nghị một thứ
“quân bình tỷ lệ” trong hành động phân phối: “Trong công bằng phân phối,
người ta trả lại cho mỗi người cái mà toàn thể mắc nợ mỗi thành viên và món nợ
này càng lớn khi thành viên đóng góp nhiều hơn cho cộng đồng (…). Do đó, công
bằng phân phối không xác định mức độ phân phối dựa trên sự bình đẳng vật đối
vật, mà theo tương quan tỉ lệ giữa sự vật với con người. Nói cách khác, khi một
người đóng góp cho cộng đồng nhiều hơn các người khác thì sẽ được phân phối
nhiều hơn”. Trái với công bằng giao hoán, trong công bằng phân phối tính bình
đẳng được thiết lập theo “tỉ lệ số học”[12].
Sau khi đã
phân tích quan niệm công bằng theo thánh Tôma, Th. Delos đã kết luận với một
nhận định sâu sắc như sau: Quan niệm công bằng phân phối của thánh Tôma dựa
trên thực tế bất quân bình xã hội để thay thế quân bình chủ nghĩa bằng “công
bằng tỉ lệ” và dựa trên nguyên tắc bình đẳng nền tảng giữa người với
người, bất chấp những bất bình đẳng về xã hội, để đảm bảo cho mỗi người những
điều kiện sống xứng đáng với nhân phẩm. Nhân danh tính bình đẳng tự nhiên giữa
người với người này, mỗi cá nhân có quyền căn bản trong công bằng phân phối[13].
Thánh Tôma
đã bảo vệ một cách dứt khoát quan niệm công bằng này, vì thực ra đây chỉ là một
hệ luận tất nhiên của quan điểm nền tảng về vận mệnh phổ quát của tất cả tài
sản trên Trái đất và quyền của người nghèo được tham dự vào tài sản đó. Thành
ra, nghĩa vụ của các sở hữu chủ là làm sao quản trị tốt tài sản đang nắm giữ,
đồng thời tạo điều kiện để người nghèo được tham dự vào tài sản chung này, nhất
là khi họ lâm cảnh khốn cùng.
3.3.2- Chiếm hữu riêng hay chung
Truyền thống Kitô giáo chưa biết tới quan niệm quyền tư hữu đối lập với
“tài sản chung” hay “quốc hữu” như ở thời đại chúng ta. Thánh Tôma không hề sử
dụng từ “tư hữu” theo nghĩa hiện đại, mà thường sử dụng hạn từ “chiếm hữu
riêng” và “chiếm hữu chung”.
Đối diện
với câu hỏi: “Con người có được
phép chiếm hữu một cái gì làm của riêng không?”,
Tôma không trả lời một cách đơn giản có hay không, mà đã đưa ra một phân biện
thời danh có khả năng tổng hợp tư tưởng của các Giáo phụ.
a)- Về phương diện quản trị: Theo thánh Tôma, “con người có
hai thái độ đối với tài sản ngoại tại. Trước hết, quyền quản trị và phân phối
chúng. Dưới góc độ này, con người được phép chiếm hữu tài sản một cách riêng
tư”. Và thánh Tôma đưa ra ba lý do để biện minh cho quan điểm này:
* Khi mỗi người trách nhiệm một công việc thì tốt hơn tình
trạng “cha chung không ai khóc”. Lý do hiển nhiên: “Mỗi người thường quản trị
chu đáo những gì được giao phó cho riêng họ hơn là khi được giao chung cho mọi
người hoặc nhiều người, bởi vì mỗi cá nhân thường tránh những gì cực nhọc và
đùn trách nhiệm cho người khác”
* Việc quản trị tài sản cũng có trật tự hơn khi giao cho
mỗi người coi sóc một công việc, trong khi đó sẽ phát sinh xáo trộn nếu mọi
người trách nhiệm một cách không rõ rệt về mọi sự”.
* Hòa bình sẽ được bảo đảm tốt hơn nếu mỗi người thỏa mãn
với những gì mình có, trong khi đó tình trạng lộn xộn, thiếu rõ ràng và minh
bạch thường là nguyên nhân của tranh chấp, khiếu kiện.
b)- Về phương diện sử dụng. Theo thánh Tôma, con người cũng
có quyền sử dụng các tài sản ngoại tại để thỏa mãn nhu cầu thiết yếu và để phát
triển bản thân. Nhưng về phương diện này, không nên chiếm hữu tài sản một cách
riêng tư, mà nên để tài sản làm của chung, ngõ hầu những người nghèo khổ cũng
được tham dự vào tài sản chung của nhân loại.
Xin trích
dẫn một bản văn tiêu biểu của Tôma Aquinô: “Con người không được chiếm hữu các
tài sản trần gian như của riêng mình, mà như tài sản chung, theo ý nghĩa là
phải chia sẻ tài sản này cho những người túng thiếu. Vì thế, thánh Phaolô viết:
“Anh hãy truyền cho những người giàu ở trần gian này (…) phải ăn ở rộng rãi và
sẵn sàng chia sẻ”[14].
Như vậy,
đối với Tôma, không hề có một quyền “tư hữu” tuyệt đối và bất khả xâm phạm.
Quyền “tư hữu” được chấp thuận và biện minh vì lý do quản trị, kinh tế và tâm
lý. Nó được coi là một phương tiện để quản trị tốt hơn tài sản chung, chứ không
hủy bỏ nguyên tắc nền tảng về vận mệnh phổ quát của tài sản và quyền căn bản
của người nghèo được tham dự vào tài sản chung của nhân loại.
[1] R. Sierra Bravo đã tuyển tập hầu như tất cả
các bản văn của các Giáo phụ về vấn đề kinh tế - xã hội trong tác phẩm đồ sộ
mang tựa đề “Doctrina social y económica de los Padres de la Iglesia. Colección general de textos y documentos”, Madrid, 1967; El mensaje social de los Padres de la Iglesia. Selección
de textos, Madrid, 1989; D. Ruiz
Bueno, Padres Apostólicos, BAC, Madrid, 1985.
[9] Trích dẫn theo J.I. González faus, Vicari di Cristo. I poveri nella
teologia e nella spiritualità cristiane, EDB, Bologna, 1995, 153-154.
[13] Th. Delos, Notes et appendices de Somme théologique II-II, q.57-62, Cerf, Paris, 1932, 208; D. Dognin, Justice distributive et Philosophie
économique, Le Saulchoir, 1962.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét