Từ khi Chủ nghĩa Xã hội ở Đông Âu sụp đổ do chính những mâu thuẫn và yếu kém
nội tại, thị trường tự do trở thành mô hình kinh tế duy nhất của thế giới đương
đại. Kinh tế thị trường được coi là cơ cấu hữu hiệu nhất để trao đổi hàng hóa
và dịch vụ, giải quyết một cách nhanh chóng mối tương quan căng thẳng giữa cung
– cầu, đồng thời là một yếu tố tích cực để thúc đẩy sản xuất, sáng tạo và tăng
hiệu năng kinh tế.
Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc (PNUD) công
nhận vai trò quan trọng của thị trường trong phát triển kinh tế[1]. Đức Giáo chủ Gioan Phaolô II
cũng nhìn nhận rằng “dường như trên bình diện quốc gia cũng như trong các tương
quan quốc tế, thị trường tự do là phương tiện thích đáng nhất để sử dụng tài
nguyên và đáp ứng một cách hữu hiệu các nhu cầu của cuộc sống”[2].
Nhưng kinh tế thị trường chẳng bao giờ là “thuốc thần
trị bách bệnh”, có khả năng giải quyết mọi vấn đề xã hội. Thị trường càng
không phải là một chuẩn mực luân lý hay là một nguồn đạo đức cho cuộc sống.
Trong mấy thập niên vừa qua, Giáo huấn xã hội của Giáo Hội đã phân tích và
lượng giá thị trường tự do, cũng như các cơ chế khác của đời sống kinh tế
không chỉ dựa trên sản phẩm, dịch vụ hay lợi nhuận, mà còn tùy theo cách thế
chúng tác động trên đời sống con người: Phục vụ công ích, bảo vệ cuộc sống, đẩy
mạnh tiến trình phát triển toàn diện hay ngược lại làm băng hoại nhân phẩm, gây
tổn thương cho nhân quyền và làm phương hại đến các quyền lợi căn bản khác của
các dân tộc?
18.1- Chức năng của thị trường
Theo nguyên ngữ, thị trường chính là một địa điểm thể lý,
quen gọi là chợ, nơi người mua và người bán trực tiếp trao đổi
và mặc cả với nhau về giá cả, sản phẩm, sản lượng, lao động... Hôm nay, “thị
trường là một cơ cấu tổ chức kinh tế trong đó người mua và người bán tương tác
với nhau để xác định giá cả và sản lượng của hàng hóa hay dịch vụ”[3]. Thị trường này rất đa dạng:
có thể tập trung như thị trường chứng khoán, cũng có thể phi tập trung như thị
trường lao động hoặc địa ốc, hay chỉ hiện hữu trên các xa lộ thông tin như các
sản phẩm và dịch vụ được trao đổi qua mạng Internet.
Nói cách khác, thị trường là biểu hiệu thu nhỏ của một
quá trình thông qua đó các quyết định của người tiêu thụ về việc mua một mặt
hàng nào đó, các quyết định của các công ty về việc nên sản xuất cái gì, sản
xuất như thế nào và sản xuất bao nhiêu, cũng như quyết định của công nhân về
vấn đề lựa chọn việc làm, làm cho ai và làm bao lâu... đều được dung hòa nhờ sự
điều chỉnh của giá cả. Quá trình điều chỉnh này sẽ thúc đẩy xã hội phân bố lại
các nguồn lực nhằm giải quyết một cách thỏa đáng câu hỏi kinh tế cam go: sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất bao nhiêu và sản xuất cho ai?
Trong hệ thống kinh tế thị trường, tất cả các hoạt động
kinh tế không bị Nhà nước kiểm soát hoặc bị đặt dưới sự chỉ đạo của một cơ quan
trung tâm nào cả. Dù vậy, thị trường cũng không rơi vào tình trạng hỗn loạn và
phi lý, trái lại nó hoạt động hữu hiệu và hiểu ngầm một thứ trật tự nào đó. “Nó
là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá
nhân khác nhau. Không có một bộ não hay hệ thống tính toán trung tâm, nhưng nó
vẫn giải quyết được vấn đề sản xuất và phân phối bao gồm hàng triệu ẩn số và
mối tương quan mà không ai biết; những vấn đề ấy cho dù những máy tính nhanh
nhất ngày nay cũng không thể làm nổi. Chẳng ai thiết kế ra thị trường, nhưng nó
vẫn vận hành rất tốt”[4].
“Bản tóm lược Học thuyết xã hội của Giáo Hội” của
Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình cũng nhìn thị trường theo chiều
hướng đó: “Giáo huấn xã hội của Giáo Hội đánh giá cao các lợi ích chắc chắn mà
cơ chế thị trường tự do cống hiến, nhờ biết sử dụng các nguồn lực thiên nhiên
cách tốt hơn và biết tạo điều kiện để hàng hóa được trao đổi cách thuận lợi
hơn. Quan trọng hơn cả là cơ chế ấy “… đã đặt trọng tâm nơi ý muốn và sở thích
của con người”… Một thị trường cạnh tranh đích thực là một phương tiện hữu hiệu
để đạt được mục tiêu quan trọng của công bằng: điều tiết sự thái quá về lợi
nhuận của các xí nghiệp, đáp ứng yêu cầu của người tiêu thụ, sử dụng và bảo tồn
tài nguyên cách hiệu quả hơn, tưởng thưởng những cố gắng của các doanh nhân và
việc canh tân cách tài tình, phổ biến thông tin để người ta thực sự có thể so
sánh và mua các sản phẩm trong bầu khí cạnh tranh lành mạnh”[5].
Trên thực tế, cơ chế thị trường không ngừng tạo ra những
điểm bất ngờ và kỳ diệu để xác định ba vấn đề căn bản của tổ chức kinh
tế: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Chúng
ta có thể liệt kê một số nét tiêu biểu về hoạt động và chức năng của thị
trường:
18.1.1. Chức năng cân
bằng cung cầu
Cơ chế thị trường tự tìm được cân bằng cung cầu khi
tạo ra sự cân đối giữa các lực lượng sản xuất bằng hệ thống giá cả. Chính giá
cả này là quả cân trong cơ chế thị trường: khi giá tăng sẽ làm giảm lượng tiêu
thụ và khuyến khích sản xuất; ngược lại, khi giá hạ sẽ khuyến khích tiêu dùng
và giảm sản xuất.
18.1.2- Chức năng thông tin
Giá cả cũng đóng vai trò tín hiệu đối với người tiêu
dùng, cũng như người sản xuất. Nếu một mặt hàng nào đó được người tiêu dùng mua
nhiều thì giá sẽ tăng và việc tăng giá này là tín hiệu giúp người sản xuất biết
rằng phải cung cấp nhiều hơn. Thông tin của thị trường rất đa dạng và phong
phú: giá cả, tổng số cung – cầu, cơ cấu cung – cầu, thị hiếu của khách hàng,
hướng di chuyển của hàng hóa và dịch vụ. Các thông tin này đóng vai trò quan
trọng trong việc lấy quyết định về sản xuất, quản lý, mậu dịch, v.v…
18.1.3- Chức năng thừa
nhận
Các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và dịch vụ là để bán.
Người tiêu dùng sẽ sử dụng đồng tiền của mình như “lá phiếu” để xác
định sự thành công hay thất bại của sản phẩm trên thị trường. Cơ chế thị trường
dùng lợi nhuận và thua lỗ như một tiêu chuẩn hiệu quả nhất để tưởng thưởng hay
trừng phạt đối với các nhà kinh doanh.
18.1.4- Chức năng điều
tiết
Thông qua hệ thống giá cả, yếu tố lợi nhuận và điều kiện
cạnh tranh gay gắt, thị trường điều tiết hành động chuyển vốn từ ngành sinh lợi
thấp sang ngành sinh lợi cao hay mối quan hệ phức tạp giữa cung và cầu. Sự điều
tiết này góp phần thiết lập quân bình cung – cầu, đồng thời đòi hỏi các nhà
doanh nghiệp phải áp dụng phương pháp sản xuất hiệu quả nhất nhằm tăng chất
lượng và giảm giá thành của sản phẩm.
Khi đề cao tự do cá nhân, tính năng động và óc sáng tạo
trong sinh hoạt kinh tế, phái tự do kinh tế đã đặt nổi một nguyên tắc căn bản
trong phát triển kinh tế. Thật vậy, nếu trong một số trường hợp đặc biệt, việc
can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế được coi là biện pháp cần thiết để
đẩy mạnh phát triển và đảm bảo quân bình xã hội, thì chế độ bao cấp không những
không thành công trong việc phát triển đất nước, mà còn tạo ra những hậu quả
kinh tế nguy hại như tình trạng thiếu hụt thường xuyên về lương thực và hàng
hóa, lề lối làm việc bê bối, thiếu hiệu năng, thái độ tắc trách, phung phí
nguyên liệu thiên nhiên, thâm thủng công quỹ, nạn quan liêu, cửa quyền, tham
nhũng, hối lộ...
Đã hẳn, cũng như những hệ thống kinh tế chính trị khác,
kinh tế thị trường chẳng hoàn hảo và lý tưởng gì. Tuy nhiên, kinh nghiệm trong
mấy thập niên vừa qua cho thấy ít nhất nó vẫn hoàn bị hơn hệ thống kinh tế chỉ
huy được áp dụng tại các nước thuộc khối chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu trước đây.
Ít nhất thị trường tự do đã tránh được những giới hạn, khuyết điểm và sai lầm
của kinh tế bao cấp, cũng như tính không tưởng và thiếu hiệu năng của nhiều
chương trình an sinh xã hội. Quan niệm giáo điều về lý tưởng bình đẳng tuyệt
đối nhiều lần đã dẫn đến tình trạng “bình quân trong lầm than” và chủ trương
duy ý chí về nhảy vọt kinh tế kết cục chỉ là những bước tụt hậu thê thảm. Trung
Quốc dưới thời cách mạng văn hóa và Cambốt của Pol Pot là hai thí dụ điển hình
và gần gũi nhất.
18.2- Giới hạn của
thị trường
Bất chấp những thành công của thị trường tự do, chúng ta
không nên quên những giới hạn và mặt trái bi thảm của nó. Thực tế đau thương đã
cải chính quan niệm “lạc quan ngây thơ” cho rằng thị trường sẽ giải quyết mọi
khó khăn kinh tế và đem lại phúc lợi đồng đều cho mọi người, mọi nước. Xưa cũng
như nay, thị trường tự do vẫn là bãi chiến của cạnh tranh, thế lực và lợi
nhuận, trong đó mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé. Câu nói của Linh mục
Lacordaire vào đầu thế kỷ XIX vẫn còn văng vẳng bên tai: “Trong cuộc cạnh tranh
giữa mạnh và yếu, giàu và nghèo, tự do là ức chế và luật pháp là giải thoát”.
Giả sử các tác nhân kinh tế (Economic Agents) có khả năng
nhận thức nhạy bén những biến đổi của sinh hoạt kinh tế và thị trường có khả
năng tự sửa sai đi chăng nữa, cũng không thể chấp nhận quan niệm thị trường như
một thứ “thần dược trị bách bệnh”[6]. Trên thực tế các tác nhân
kinh tế – nghĩa là người sản xuất, chủ xí nghiệp, người đầu tư, người bán,
người mua – lấy quyết định dựa trên các tin tức nhận được từ thị trường. Nhưng
cũng như những phương tiện thông tin khác, thị trường cũng có những giới hạn và
khuyết điểm tất nhiên của nó. Tin tức do thị trường cung cấp có khi đầy đủ,
chính xác, nhưng cũng đầy dẫy thiếu sót, thiên lệch hay bị bóp méo và xuyên tạc
theo quan điểm của người đưa tin.
Cũng chẳng ai có thể giải quyết nổi những vấn đề phức tạp
của xã hội hiện nay nếu chỉ dựa trên tiêu chuẩn thị trường, càng không thể đo
lường mọi giá trị của cuộc sống bằng giá cả của thị trường. Giá trị của cuộc
sống, danh dự của con người, nhân phẩm của người lao động, quyền lợi chính trị
của người công dân, tình mẫu tử, tình vợ chồng, tình bạn, lòng bao dung, đức hy
sinh chẳng hạn, đâu có thể chỉ đo đếm bằng giá cả thị trường. Thị trường cũng
thường đãi ngộ quá đáng những siêu sao điện ảnh và thể thao, trong khi đó nhiều
khi lại bỏ quên những người đóng góp tích cực cho xã hội như các bà mẹ, các nhà
bác học, nghiên cứu viên, bác sỹ, kỹ sư, nhà giáo, công nhân, nông dân...
Về vấn đề này, đức Gioan Phaolô II đã viết những
dòng thật ý nghĩa và sâu sắc: “Có những nhu cầu tập thể và phẩm chất không thể
được thỏa mãn bằng cơ chế của thị trường; có những yêu sách quan trọng của con
người vượt ra khỏi logic của thị trường; có những tài sản, do bản chất riêng,
không thể bán hoặc mua được. Chắc chắc cơ chế thị trường đem lại nhiều lợi ích,
trong đó phải nói đến việc nó giúp sử dụng đúng đắn hơn nguồn lợi thiên nhiên,
cổ võ việc trao đổi sản phẩm và nhất là quan tâm đến ý muốn và ưa thích của con
người… Tuy nhiên, luôn hàm chứa nguy cơ “thần tượng hóa” thị trường
thành, tức không để ý đến sự hiện hữu của những tài sản, tự bản chất, không
phải là và không thể là những hàng hóa đơn thuần”[7].
Thật vậy, không những thị trường không đếm xỉa đến các
giá trị luân lý và nhân bản, mà còn coi nhẹ giá trị môi sinh và xã hội. Hiện
nay, khi đề cập đến giá thành của một sản phẩm, người ta không thể không phân
biệt giữa “giá tư nhân” và “giá xã hội”. Trong rất nhiều trường hợp, nếu chỉ
nhằm giảm thiểu tới mức tối đa “giá tư nhân” thì có thể tạo nên hậu quả xấu về
mặt xã hội. Chẳng hạn nước và không khí có giá thương mại rẻ mạt, tuy nhiên giá
xã hội của nó rất cao. Do đó, nếu chỉ dựa trên tiêu chuẩn thị trường để giảm
thiểu tối đa giá thành của các sản phẩm, thì sẽ gây nên những tổn thương xã hội
rất cao, do việc ô nhiễm môi trường.
Chính kinh tế gia Paul A. Samuelson cũng công nhận: “Thị
trường không phải lúc nào cũng đưa ra kết quả tối ưu. Khuyết tật thứ nhất của
thị trường là độc quyền và các hình thức cạnh tranh không hoàn hảo khác. Khuyết
tật thứ hai của bàn tay vô hình xảy ra khi xuất hiện những tác động lan tỏa hay
ảnh hưởng ngoại sinh bên ngoài thị trường như ảnh hưởng ngoại sinh tích cực của
các phát minh khoa học, hay ảnh hưởng ngoại sinh tiêu cực của nạn ô nhiễm môi
trường. Cuối cùng là tình trạng phân phối thu nhập không thể chấp thuận được cả
về mặt chính trị lẫn mặt đạo đức”[8].
Một huyền thoại khác cũng cần được giải mã đó là thái độ
lạc quan quá đáng ở sự “tự do” nơi “thị trường tự do”. Trước đây,
ở vào thời kinh tế thịnh đạt, thị trường của các nước giàu tương đối được mở
rộng cho sản phẩm của các nước đang phát triển. Hiện nay, trong lúc các nước
đang phát triển mở rộng cửa khẩu của mình thì các nước kỹ nghệ hóa, lại có
những biện pháp rất khắt khe để ngăn chặn sản phẩm công nghệ của các nước
nghèo. Nông phẩm cũng bị chèn ép vì hàng rào quan thuế và nhất là vì hàng tỉ mỹ
kim các nước giàu bỏ ra mỗi năm để trợ cấp cho nông dân của họ nhằm không tăng
giá nông phẩm. Kết quả là nông dân của các nước nghèo bị thiệt thòi.
Không phải hoàn toàn vô căn cứ khi ông Mahathir Mohamad,
nguyên thủ tướng Mã Lai, gay gắt chỉ trích một số thế lực của thị trường đang
lũng đoạn nền kinh tế thế giới: “Thế lực thị trường là ai, hoặc là gì? Nói đúng
ra tất cả những người tiêu dùng và tất cả những ai tham gia vào những hoạt động
kinh doanh, dù lớn hay nhỏ, đều được xem là một phần trong những thế lực của
thị trường. Nhưng gần đây, những thế lực thị trường thực sự có ý nghĩa –và đóng
một vai trò quan trọng trong bất cứ cuộc thảo luận nào về việc quản trị toàn
cầu– chủ yếu là những nhà tư bản và những nguồn quỹ đầu tư vào cổ phần và kinh
doanh tiền tệ. Chúng đã trở thành những thế lực thị trường có tính quyết định
chỉ vì chúng ảnh hưởng lớn đến thành quả của nền kinh tế quốc gia. Các thế lực
thị trường cổ xúy cho việc lưu chuyển tự do những dòng vốn không giới hạn giữa
các quốc gia để chúng có thể đầu tư không bị hạn chế và tối đa hóa lợi nhuận
của mình”[9].
Hiệu năng và khả năng của thị trường trong việc phát
triển kinh tế tùy thuộc rất nhiều ở yếu tố con người, văn hóa và chính trị. Ở
những nơi không có truyền thống kinh tế thị trường, như các nước Đông Âu trước
đây chẳng hạn, việc du nhập kinh tế thị trường vào đầu thập niên 90’ tự nó đã
không lập tức đem lại kết quả mong muốn và việc tư hữu hóa cơ cấu sản xuất cũng
chẳng cứu vớt được tình trạng kinh tế suy thoái, mà còn gây nên những xáo trộn
lớn về xã hội. Phải mất hơn 20 năm nỗ lực phấn đấu các nước này bước vào con
đường phát triển, dân chủ, tự do.
Cuối cùng, cuộc khủng hoảng tài chánh bắt đầu tại Mỹ và
đang làm chao đảo nền kinh tế thế giới hiện nay là một bằng chứng hùng hồn cho
thấy sự sai lầm của giả định cho rằng thị trường có khả năng tự điều tiết hay
tự cân bằng chỉ dựa trên luật cung cầu mà thôi. Các Nhà nước cũng như các tổ
chức quốc tế đang phải đưa ra nhiều “gói biện pháp” nhằm giải cứu các cơ chế
tài chánh đã tách rời khỏi hoạt động sản xuất trong nền “kinh tế thực” để thay
thế bằng nền “kinh tế ảo” bị chi phối bởi việc tìm kiếm lợi nhuận và hoạt động
đầu cơ do lòng tham thúc đẩy.
Trong viễn tượng đó, thiết tưởng có thể lấy quan điểm của
“Chương trình phát triển” của Liên Hiệp Quốc làm tiêu chuẩn định
hướng: để đạt được một phát triển toàn diện và có căn bản vững chắc cần khai
thác hơn nữa ưu điểm của thị trường, nhưng đồng thời phải tránh những nhược
điểm của nó. Mong sao thị trường tiếp tục đóng góp mặt tích cực của nó, nhưng
dưới một dạng thức quân bình hơn, nghĩa là làm sao kết hợp tốt tính hiệu năng,
thực tiễn của thị trường với yêu sách quân bình xã hội. Nói cho cùng thị trường
không có mục đích tự tại, mà chỉ là phương tiện để phát triển con người. Thị
trường phải phục vụ con người, chứ con người không thể trở thành nô bộc cho thị
trường[10].
18.3. Thị trường phục vụ con người?
Đức Giáo chủ Gioan Phaolô II công khai nhìn nhận là Giáo
Hội Công giáo không có một “mô hình kinh tế – xã hội – chính trị” riêng
biệt để giới thiệu với nhân loại[11] và Giáo huấn xã hội của
Giáo Hội cũng không phải là giải pháp thứ ba giữa chủ nghĩa tư bản với chủ
nghĩa xã hội. Giáo Hội, vì vậy, không có “thẩm quyền đặc biệt nào” trong lãnh
vực kinh tế. Tuy nhiên, Giáo Hội có quyền lợi và có nghĩa vụ phát biểu về vấn
đề kinh tế khi nó liên quan đến cuộc sống và phẩm giá con người. Lý do giản dị
là vì Tin Mừng có liên hệ mật thiết đến vận mệnh của con người và một Giáo Hội
luôn quan tâm đến những con người cụ thể, hiện thực, sống động… thì dĩ nhiên
phải quan tâm đến tất cả các chiều kích của cuộc sống trần thế[12].
Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình nhận định tổng
quát về các định chế kinh tế như sau: “Một trong các vấn đề được ưu tiên
hàng đầu trong kinh tế là sử dụng các tài nguyên, tức là sử dụng tất cả hàng
hóa và dịch vụ mà các thành phần kinh tế – từ nhà sản xuất đến người tiêu thụ
trong phạm vi cá nhân cũng như cộng đồng – cho là có giá trị, bởi vì chúng hữu
ích cho nhà sản xuất lẫn người tiêu thụ. Tài nguyên thiên nhiên luôn khan hiếm
về số lượng, do đó mỗi chủ thể kinh tế, cá nhân hay xã hội, đều nhất thiết phải
nghĩ tới kế hoạch sử dụng các tài nguyên ấy một cách hết sức hợp lý, theo logíc
của “nguyên tắc tiết kiệm”[13].
Nhìn từ góc độ hiệu năng và nguyên tắc tiết kiệm nói
trên, Hội đồng Giáo hoàng có lý để kết luận: “Thị trường tự do là một định
chế có tầm quan trọng xã hội, vì nó có khả năng bảo đảm một cách hữu hiệu cho
việc sản xuất hàng hóa và cung ứng các dịch vụ”[14]. Chính Đức Giáo chủ Gioan
Phaolô II cũng công nhận rằng “trên bình diện quốc gia cũng như trong các mối
quan hệ quốc tế, thị trường tự do là phương tiện thích đáng nhất để sử dụng các
tài nguyên và đáp ứng hữu hiệu cho các nhu cầu của cuộc sống”[15].
Nói chung, Giáo huấn xã hội của Công giáo đánh giá cao
khả năng sáng tạo, tính năng động và hiệu năng của thị trường tự do trong việc
trả lời cho nhu cầu kinh tế của xã hội. Cũng chính cơ chế thị trường “giúp sử
dụng tốt hơn tài nguyên, cổ võ việc trao đổi sản phẩm và nhất là đặt trọng tâm
vào ý muốn và sở thích của con người”[16]. Giáo huấn xã hội cho rằng “khi thị trường tự do thực
hiện được các chức năng quan trọng nói trên là nó đã phục vụ công ích và việc
phát triển con người”[17].
Tuy nhiên, Giáo huấn xã hội rất có lý khi cảnh cáo khuynh
hướng thần thánh hóa thị trường và muốn lấy tiêu chuẩn của thị trường làm thước
đo duy nhất của xã hội. Đây là “nguy cơ biến thị trường thành một thứ “bái
vật”, nghĩa là không ý thức rằng có những tài sản, tự bản chất,
không phải là và cũng không thể là những hàng hóa đơn thuần”. Có những nhu cầu
thiết yếu cho cuộc sống như tình mẫu tử, tình yêu, tình bạn, lòng vị tha, tình
liên đới… chẳng bao giờ có thể mua bán hay trao đổi theo tiêu chuẩn của thị trường.
Ngay từ năm 1931, trong thông điệp “Tứ thập niên”,
Đức Piô XI đã nhận định: “Tương tự như không thể thiết lập tính thống nhất của
xã hội loài người dựa trên đấu tranh giai cấp, thì cũng không thể trao
phó trật tự kinh tế cho tự do cạnh tranh. Thật vậy, chính từ nguyên tắc này,
giống như từ một nguồn suối nhiễm độc, đã phát tán tất cả các sai lầm của chủ
trương kinh tế cá nhân chủ nghĩa. Sau khi phá hủy khía cạnh xã hội và luân lý
của đời sống kinh tế, lý thuyết này chủ trương rằng kinh tế phải vận hành hoàn
toàn độc lập với công quyền, bởi vì trong thị trường, nghĩa là trong cạnh tranh
tự do, kinh tế sẽ tự tìm ra nguyên lý tự điều phối một cách hoàn hảo hơn bất cứ
sự can thiệp nào của lý trí. Đành rằng tự do cạnh tranh là hợp lý và hữu ích
trong những giới hạn nhất định, nhưng hiển nhiên nó không thể điều phối đời
sống kinh tế. Thực tế đã chứng minh điều đó quá đầy đủ, kể từ khi người ta áp
dụng các nguyên tắc của thứ cá nhân chủ nghĩa tai hại này. Vì thế, thật hết sức
cần thiết phải đặt lại kinh tế dưới một nguyên tắc đúng đắn và hữu hiệu hơn”[18].
Thông điệp “Bách chu niên” nêu rõ “một
trách vụ theo nghĩa chặt về công bằng và chân lý là làm sao để các nhu cầu căn
bản của con người được thỏa mãn, cũng như những người bị áp bức không bị diệt
vong. Ngoài ra, cần thiết phải giúp đỡ những người lâm cảnh túng quẫn này tiếp
thu các kiến thức, đi vào vào vòng tròn của các mối tương quan, phát triển tài
năng để có thể sử dụng khả năng và nguồn vốn cá nhân một cách tốt nhất. Vượt
lên trên cái logic của trao đổi và những hình thức công bằng chi phối hành động
trao đổi này, còn có một món nợ đối với con người, bởi vì họ là người,
do phẩm giá cao quý của họ. Món nợ này bao gồm một cách bất khả phân ly
khả năng sống còn và khả năng tham dự tích cực vào tài sản chung của nhân loại”[19].
Theo định hướng của nguyên tắc “vận mệnh phổ quát của
tài sản”, Giáo huấn xã hội không thể chấp nhận chủ trương lấy thị
trường tự do thành quy chiếu duy nhất của đời sống xã hội. Thật vậy, kinh tế
chỉ là một trong muôn vàn lãnh vực của hoạt động con người. Cũng như các lãnh
vực khác, tự do kinh tế chỉ là một yếu tố trong tự do của con người, nên cần
thực hiện với tinh thần trách nhiệm. Do đó, “khi thị trường trở thành độc
lập, nghĩa là khi con người bị coi như nhà sản xuất hay người tiêu thụ hơn là
chủ thể đã sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để sống, lúc đó tự do kinh tế đánh mất
mối tương quan cần thiết với con người và sẽ kết thúc bằng cách tha hóa và đàn
áp con người”[20].
Chính vì vậy, “Giáo huấn xã hội của Giáo Hội vừa nhìn
nhận thị trường là một công cụ không thể thay thế để điều hòa các sinh hoạt bên
trong của hệ thống kinh tế, vừa chỉ cho thấy thị trường cần phải bám chặt vào
các mục tiêu đạo đức, nhằm đảm bảo và quy định cách thích hợp không gian độc
lập của nó”[21].
18.4. Mô hình xã hội ba bàn tay
Không ai phủ nhận chức năng kinh tế – xã hội đầy ý nghĩa
của thị trường tự do trong thế giới hôm nay. Tuy nhiên, nếu thị trường muốn
thực hiện đúng đắn chức năng này, thì không thể lấy lợi nhuận làm mục tiêu duy
nhất và cũng không thể tìm nơi bản thân thị trường các nguyên tắc để hợp pháp
hóa mục tiêu của mình, mà cần được định hướng bởi nguyên tắc đạo đức[22]. Cho dù hoạt động kinh tế
được điều hành theo những phương pháp riêng, nhưng luôn luôn phải tôn trọng các
khuôn khổ pháp lý và công bằng xã hội. Chính vì vậy, Đức Phaolô VI quả quyết:
“Tự do thương mại chỉ công bằng khi tuân thủ những đòi hỏi của công bằng xã
hội”[23].
Ngoài ra, cần đặc biệt lưu ý đến các nguyên tắc nền tảng
mà chúng tôi đã trình bày ở phần II như: Phẩm giá con người, công thiện công
ích, nguyên tắc bổ trợ, chiều kích liên đới, vận mệnh phổ quát của tài sản, ưu
tiên chọn lựa người nghèo… Nói tóm lại, ước mong thị trường tự do tiếp tục đóng
góp nhiều hơn nữa các ưu điểm của nó cho nhân loại, nhưng để thực hiện được
điều đó cần có sự kết hợp hài hòa và hiệu năng giữa “ba bàn tay”: Nhà nước
– Thị trường – Xã hội Dân sự.
18.4.1- Tiến
trình hình thành
Thuật ngữ “xã hội dân sự” (Societas civilis)
có một tiến trình hình thành phức tạp và bao hàm nhiều nghĩa khác nhau trong tư
tưởng chính trị ở mấy thế kỷ gần đây. Theo nghĩa xa xưa nhất, “xã hội dân
sự” (societas civilis) đối lập với “xã hội tự nhiên” (societas
naturalis) và hầu như đồng nhất với “xã hội chính trị”, nghĩa là với “Nhà
nước”. Quan niệm nguyên thủy về luật tự nhiên cho rằng xã hội
dân sự hoặc Nhà nước được khai sinh để đối kháng với
tình trạng sơ khai của nhân loại, khi chưa có luật lệ nào cả, ngoại trừ luật tự
nhiên hoặc tệ hơn nữa “luật rừng”. Xã hội dân sự ra đời cùng
với cơ chế pháp lý và quyền bính hợp pháp nhằm đảm bảo cho các thành viên những
quyền lợi căn bản như hòa bình, yên ổn, trật tự, tự do, tư hữu…, đối lập với
giai đoạn hồng hoang.
Có lẽ John Locke là tác giả đầu tiên đã trình bày sự đồng
nhất giữa xã hội chính trị với xã hội dân sự, bằng những dụng ngữ chuyên môn:
“Những người được kết hợp trong một cơ thể xã hội và có luật lệ thiết định
chung cũng như có cơ quan tư pháp để giải quyết các khiếu kiện, với thẩm quyền
quyết định những tranh cãi giữa họ, là những người cùng chung sống trong
một xã hội dân sự. Còn những người không có nơi khiếu kiện
chung như thế (…), thì vẫn luôn luôn ở trong trạng thái tự nhiên”[24].
Vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, xã hội
dân sự bắt đầu tách rời khỏi Nhà nước. Luật Dân sự của
Pháp (1804) phân biệt rõ rệt “xã hội dân sự” với Nhà nước,
cũng như lãnh vực tư nhân với lãnh vực công. Kể từ đây, Nhà nước không còn đồng
nhất với xã hội dân sự, mà chỉ là một bộ phận của cơ cấu xã
hội rộng lớn và phức tạp. Xã hội dân sự bao gồm nhiều mối
tương quan giữa các cá nhân, các nhóm, các tổ chức, các đoàn thể, các hiệp hội,
các giai cấp xã hội…, được phát triển và nối kết với nhau bên ngoài những tương
quan quyền lực, nghĩa là bên ngoài các cơ cấu đặc thù của Nhà nước. Nói cách
khác, xã hội dân sự được coi là một vùng đất rộng lớn, phong
phú, năng động và phức tạp của những mối tương quan cũng như của các cuộc tranh
chấp và xung đột về kinh tế, xã hội, ý thức hệ, văn hóa, tôn giáo…, mà Nhà nước
có nhiệm vụ giải quyết.
Nếu sử dụng tiêu chuẩn phân biện của Max Weber giữa quyền
lực hiện thực và quyền lực pháp lý, chúng ta có thể víxã hội dân sự như
mảnh đất của những tương quan có “quyền lực hiện thực”, trong khi đó Nhà
nước là cơ quan nắm giữ “quyền lực pháp lý”, do xã hội dân sự ủy thác.
Cũng theo thuật ngữ chuyên môn của Max Weber, người ta có thể gọi Nhà nước là
cơ quan “độc quyền sử dụng quyền lực hợp pháp”[25], trong khi đó xã hội
dân sự chính là cơ cấu đã trao quyền lực này cho Nhà nước.
So với Nhà nước, xã hội dân sự có nhiều sáng tạo, đầy
năng động, sát với nhu cầu cuộc sống và thay đổi mới nhanh hơn. Thông thường,
Nhà nước không những không đủ khả năng để nắm bắt tất cả các cuộc canh tân,
biến đổi, phát triển và sức sống mới nẩy sinh từ lòng xã hội dân sự, mà nhiều
khi còn có nguy cơ bị quan liêu hóa, sơ cứng, bảo thủ và lạc hậu trước những
biến chuyển của thời đại. Chính vì vậy, từ lòng xã hội dân sự thường xuất hiện
những sáng kiến đổi mới, phê bình, chỉ trích, phản biện và đề nghị cải cách, mà
thông thường Nhà nước không muốn chấp nhận hay không thể đáp ứng ngay. Đó là
một trong những lý do tạo nên sự căng thẳng và xung đột, nhưng đồng thời cũng
là nguồn gốc của những sáng kiến, canh tân, đổi mới, tiến bộ…
Jacque Maritain đưa thêm một phân biệt khá thú vị: Xã
hội dân sự hay “cơ thể chính trị” được quan niệm là một xã
hội hoàn bị, có mục đích thực hiện “công thiện công ích”, trong khi đó Nhà
nước chỉ là một phần của “cơ thể chính trị”, được trao phó
trách nhiệm quản trị quyền bính để phục vụ công ích và kiến tạo phúc lợi cho
các thành viên. Đối với J. Maritain, chính nhân dân mới là chủ thể đích thực,
sống động và tự do của “cơ thể chính trị”. Ông cho rằng dân chúng lãnh nhận từ
Tạo Hóa trọn vẹn quyền bính, rồi trao nó cho Nhà nước. Do đó, Nhà nước không
nắm quyền “tối cao” theo nghĩa chặt, mà thực ra chỉ là thành phần và công cụ
của xã hội dân sự. Nói rõ hơn, quyền bính thuộc về nhân dân và Nhà nước được
nhân dân trao phó quyền bính này để phục vụ công ích[26].
Hiện nay, thuật ngữ “xã hội dân sự” ám chỉ
tất cả lãnh vực xã hội rộng lớn nằm ngoài guồng máy Nhà nước và không thuộc thị
trường theo nghĩa chặt. Nói rõ hơn, xã hội dân sự bao gồm các nhóm, các tổ
chức, các đoàn thể, các hiệp hội, các nghiệp đoàn, các câu lạc bộ, các hội ái
hữu, các cơ quan truyền thông đại chúng, các trung tâm học vấn, các trung tâm
nghiên cứu, các tổ chức văn hóa, các tôn giáo, các tổ chức phi chính phủ, các
cơ quan từ thiện, v.v… Ở các nước phát triển, “xã hội dân sự” lớn
mạnh và đóng vai trò kiểm soát Nhà nước, cũng như hướng dẫn thị trường. Trong
khi đó, tại nhiều nước đang phát triển, “xã hội dân sự” đang hình
thành và cố gắng đòi lại khung trời tự do, độc lập và sáng tạo trong lãnh vực
nghệ thuật, văn hóa, kinh tế, chính trị, tư tưởng, tâm linh… mà một thời Nhà
nước đã lấy mất.
18.4.2- Tiến
tới thế chân vạc
Với tiến trình toàn cầu hóa và việc hội nhập vào dòng
chảy chung của nhân loại, “bàn tay vô hình” của kinh tế thị trường ngày
một rõ nét và lớn mạnh hơn trong xã hội Việt Nam. Kinh tế tư nhân và sáng kiến
cá nhân bắt đầu có những đóng góp quan trọng cho đất nước. Nhưng thị trường
không bao giờ là thuốc thần trị bách bệnh, trái lại, với tiêu chuẩn kiếm tìm
lợi nhuận, nhiều lần nó đã đẩy nhân loại vào tình cảnh “thập tử nhất sinh”.
Cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay là một thí dụ gần gũi nhất. Cũng chẳng có thể
trông chờ nơi thị trường những trận mưa lợi nhuận đồng đều cho mọi tầng lớp
trong xã hội. Trái lại, tăng trưởng kinh tế và phát triển khoa học kỹ thuật,
nhất là công nghệ mũi nhọn, càng làm gia tăng hiện tượng tập trung tài sản trong
tay những người giàu và có chuyên môn cao. Bất quân bình xã hội nói chung và
chênh lệch giàu nghèo nói riêng, càng ngày càng sâu thẳm hơn.
Để thị trường có thể làm tốt vai trò của nó,
Nhà nước phải đóng trọn vai trò quản lý và đưa ra định hướng hợp lý giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển con người. Nhân loại hôm nay không thể chấp nhận
một Nhà nước bao cấp, nhưng luôn luôn cần một Nhà nước tân tiến, hữu hiệu, năng
động, có khả năng nắm bắt thị trường, hoạch định kế hoạch phát triển dài hạn,
thiết lập hệ thống luật pháp công minh, tiền tệ ổn định, hạ tầng cơ sở tốt, nền
giáo dục hiện đại, nâng cao tư bản nhân văn, v.v. Nhà nước không những có nhiệm
vụ kiến tạo những điều kiện cần thiết nói trên, mà còn đóng vai trò sửa sai
những khuyết điểm của thị trường và tạo cơ hội để những người nghèo khổ và kém
may mắn có thể hội gia nhập thị trường lao động. Nhưng tuyệt đối Nhà nước không
được bao cấp hay có ý đồ làm thay những gì mà tư nhân làm được và làm tốt hơn,
đặc biệt trong lãnh vực sản xuất và giáo dục.
Trong bối cảnh đó, chúng ta sẽ chẳng ngạc nhiên khi thấy
Ngân hàng Thế giới coi “hành động hỗ tương giữa Nhà nước và thị trường” như một
yếu tố quan trọng cho phát triển. Thật sai lầm khi cho rằng giữa Nhà nước và
thị trường phải chọn một bỏ một. Vấn đề đích thực không nằm ở chỗ phải lựa chọn
Nhà nước hay thị trường, bởi vì cả hai đều đóng vai trò quan trọng và không thể
thay thế trong phát triển kinh tế”[27]. Hơn thế nữa, ở thời đại toàn
cầu hóa, đa dạng, đa cực, hết sức phức tạp và biến đổi khôn lường như thời đại
chúng ta, không còn giải pháp đơn thuần hay đơn giản cho những vấn đề to lớn.
Cũng chẳng có nước nào có thể tự mình giải quyết mọi vấn của xã hội đương đại.
Chính vì vậy, thiết tưởng cần phải xét lại mối xung đột cũ giữa Nhà nước với
thị trường.
Tuy nhiên, để “bàn tay pháp lý” của Nhà nước
có thể hoạt động đắc lực với “bàn tay vô hình” của thị trường, nhất là
để tăng trưởng kinh tế đi song song với phát triển xã hội và phát triển con
người, nhất thiết phải thêm một bàn tay thứ ba: “bàn tay liên đới” của
xã hội dân sự. Michel Camdessus, cựu giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế,
coi việc kết hợp mật thiết giữa “ba bàn tay” này như một đòi hỏi khẩn
thiết của thời đại, hầu tạo thành “thế chân vạc” trong phát triển kinh
tế và phát triển con người[28]. Ông cho rằng một chính phủ
tốt là một chính phủ “không những tôn trọng nhân quyền mà còn tích cực tạo điều
kiện và cơ cấu thích hợp để mọi thành phần trong xã hội có cơ hội tham gia,
giảm thiểu việc tập trung quyền bính ở trung ương và thúc đẩy tự do đầu tư
trong các hoạt động sản xuất, với sự hỗ trợ của một Nhà nước đã được điều chỉnh
một cách hợp lý”[29].
Chính xã hội dân sự sẽ là sức mạnh nối
kết Nhà nước với thị trường, hai thế lực từng đối kháng kịch liệt trong quá
khứ. Phải “làm sao để dân chúng hướng dẫn Nhà nước cũng như thị trường ngõ hầu
cả hai phải làm việc chung và phải làm sao dân chúng có đủ sức mạnh để có ảnh
hưởng hữu hiệu trên cả hai”[30]. Đây là một mô hình phát
triển tương đối mới, nhưng tiềm năng của nó rất lớn trong việc đưa ra một giải
pháp toàn diện hơn. Ít nhất, xã hội dân sự sẽ góp phần sửa sai “tính bao cấp”
và “quan liêu” của Nhà nước, cũng như bộ mặt “rừng rú” của thị trường, đồng
thời đề cao vai trò quan trọng của giáo dục và tư bản nhân văn, cũng như kết
hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội và phát triển con
người toàn diện[31].
Để tránh ngộ nhận, thiết tưởng cần nói thêm rằng xã hội
dân sự không bao giờ có thể thay thế vai trò của Nhà nước hay của Thị trường.
Nhưng hơn bao giờ hết, nhân loại hôm nay cần đến “bàn tay liên đới ”
của xã hội dân sự để tạo thành “thế chân vạc” vững chắc trong tăng trưởng kinh
tế, phát triển xã hội, phát triển con người và bảo vệ môi trường. Đây là một mô
hình phát triển hài hòa và bền vững, ngày càng rõ nét.
18.4.3- Cái
nhìn của Kitô giáo
Suốt nhiều thập niên ở thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội không phải chỉ là hai mô hình kinh tế, mà còn là hai cơ chế chính
trị và hai ý thức hệ mang tính đối kháng. Có những lúc tưởng chừng như nhân
loại đang ở trên ngưỡng cửa của chiến tranh hạt nhân vì cuộc đối kháng một mất
một còn này. Vào cuối thập niên 80’, khi khối chủ nghĩa xã hội Đông Âu sụp đổ,
nhiều người nghĩ một cách lạc quan rằng chủ nghĩa tư bản sẽ là giải pháp lý
tưởng duy nhất cho nhân loại trong tương lai.
Trong thông điệp “Một trăm năm», được công bố năm
1991, Đức Gioan Phaolô II đã đưa ra những phân biệt thật sắc nét về vai trò của
chủ nghĩa tư bản. Trước hết, theo Đức Giáo chủ, cần phân biệt hai mặt của chủ
nghĩa tư bản. “Nếu hiểu “chủ nghĩa tư bản” như một hệ thống kinh tế
công nhận vai trò căn bản và tích cực của doanh nghiệp, của thị trường, của tư
hữu và của trách nhiệm đối với các phương tiện sản xuất, của tự do sáng tạo
trong lãnh vực kinh tế” thì phải nhìn nhận giá trị và sự đóng góp rất tích cực
của nó cho nhân loại. Tuy nhiên, trong trường hợp này, đúng ra nên gọi là “kinh
tế doanh nghiệp” hay “kinh tế thị trường” hoặc một cách
đơn giản là “kinh tế tự do”. Nhưng nếu hiểu “chủ nghĩa tư
bản” như một hệ thống trong đó tự do kinh tế không bị chi phối bởi
khuôn khổ luật pháp bền vững và chẳng đếm kể đến những tiêu chuẩn đạo đức cũng
như tôn giáo, thì dĩ nhiên chúng ta không thể chấp nhận nó. Đây phải chăng là
một bước dật lùi trở lại tình trạng “laissez-faire, laissez-passer” của
thứ tư bản hoang dã?
Thứ đến, Đức Gioan Phaolô II sáng suốt cảnh giác những ai
cho rằng, với sự thất bại của “chủ nghĩa xã hội hiện thực”, chủ nghĩa tư
bản đương nhiên trở thành mô hình kinh tế lý tưởng nhất của thế giới hiện nay.
Theo Người, “giải pháp Mácxít thất bại, nhưng vẫn tồn tại các hiện tượng bị
loại trừ và bóc lột trong thế giới, đặc biệt ở thế giới thứ ba, cũng như tình
trạng vong thân tại các nước phát triển (…). Hơn nữa, còn có nguy cơ bành trướng
ý thức hệ quá khích mang màu sắc chủ nghĩa tư bản (…) triệt để tín nhiệm nơi
giải pháp tự do phát triển những năng lực của thị trường” [32]. Vô hình trung người ta đã
“thần thánh hóa” chủ nghĩa tư bản và biến nó thành một thứ thuốc thần trị
bách bệnh.
Giáo huấn xã hội của Giáo Hội không phủ nhận vai trò tích
cực của toàn cầu hóa và thị trường tự do. Cũng không nhất thiết chống lại lợi
nhuận, bởi vì nó là một yếu tố điều hòa sinh hoạt kinh tế và một thứ “nhiệt kế”
đo lường sức khỏe của doanh nghiệp. Tuy nhiên, không thể coi lợi nhuận là yếu
tố duy nhất, mà cần phải để ý đến các yếu tố khác nữa. Chính vì vậy, để đạt tới
một phát triển hài hòa kinh tế thị trường cần được giám sát bởi xã hội
dân sự và Nhà nước, ngõ hầu thỏa mãn những đòi hỏi căn bản của tất cả nhân loại[33].
Được công bố vào giai đoạn mà tăng trưởng kinh tế dựa
trên sức đẩy của lợi nhuận và “bong bóng” của đầu cơ đã nổ tung thê thảm, đồng
thời toàn cầu hóa xem ra đang nuốt trửng chính mình, giống như Cronos đã nhai
chính những đứa con của mình, thông điệp “Tình yêu trong chân lý” nêu
vấn đề căn bản: Tiến trình phát triển cần được hướng dẫn bởi chân lý và “sức
mạnh hoang dại” của toàn cầu hóa phải được điều chỉnh bởi nguyên tắc đạo
đức. Dĩ nhiên, không hề có chuyện quay trở về với chế độ “bao cấp”, nhưng cũng
chẳng có thể trao tất cả cho thị trường, mà cần đảm bảo minh bạch hơn nữa trong
hoạt động tài chánh, tuân thủ quy tắc đạo đức và tránh những rủi ro phát sinh
từ các biện pháp giải cứu tài chánh.
Để thực hiện điều này, Giáo huấn xã hội của Giáo Hội đề
nghị nối kết “ba bàn tay”: bàn tay vô hình của thị trường,
bàn tay pháp lý của Nhà nước và bàn tay liên đới của
xã hội dân sự. Sau khi nhắc lại mô hình “ba chủ thể” hay
“ba bàn tay” mà Đức Gioan Phaolô II đã đề cập trong thông điệp “Bách
chu niên”, Đức Biển Đức XVI viết thêm: “Ngày nay, chúng ta có thể nói đời
sống kinh tế phải được quan niệm như một thực tế đa chiều: trong mỗi chiều
kích, mặc dù có những mức độ khác biệt và những thể thức riêng, cần phải hiện
diện tình huynh đệ hỗ tương. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, hoạt động kinh tế
không thể không quan tâm đến tính nhưng không, một đức tính được phổ biến và
nuôi dưỡng tình liên đới cũng như ý thức trách nhiệm đối với công bằng và công
ích giữa nhiều chủ thể và tác nhân khác nhau. Đây rõ ràng là một hình thức cụ
thể và sâu xa của dân chủ trong kinh tế”[34].
Liên đới là một đức tính nhân bản làm cho con người biết
cảm thương nỗi bất hạnh của tha nhân và tự cảm thấy có trách nhiệm với nhau. Do
đó, không những không thể trao phó những “hoạt động liên đới” cho một mình Nhà
nước, mà trái lại “bàn tay liên đới” luôn luôn phải là biểu hiệu
của xã hội dân sự. Chính cảm quan liên đới này thúc đẩy nhân loại không ngừng
cố gắng tìm kiếm “mô hình kinh tế” có khả năng đón nhận mọi dân và
mọi nước chứ không phải chỉ dành riêng cho những nước hay những thành phần ưu
đãi. Như vậy, thị trường thế giới phải làm sao trở thành “không gian sống”,
trong đó mọi người được nhìn nhận như thành viên và có cơ hội để vừa cho vừa
nhận, chứ không bị đẩy vào tình trạng cạnh tranh bi thảm trong đó sự phát triển
của người này sẽ trở thành chướng ngại cho sự phát triển của người kia.
Mặc dù công nhận vai trò tích cực của thị trường và của Nhà
nước, nhưng Giáo chủ Biển Đức XVI cảnh cáo hành động liên kết độc đoán giữa Nhà
nước với thị trường: “Khi logic của thị trường và logic của Nhà nước bắt tay
nhau để kéo dài độc quyền ảnh hưởng, thì liên đới trong tương quan giữa các
công dân, cũng như việc tham gia, gắn bó và hoạt động vô vị lợi sẽ bị giảm
thiểu trong dài hạn (…). Cặp bài trùng độc quyền Thị trường – Nhà nước làm xói
mòn xã hội tính, trong khi những mô hình kinh tế liên đới tìm thấy vùng đất màu
mỡ nơi xã hội dân sự, mặc dù không tự khép kín trong đó, để kiến tạo xã hội
tính. Chẳng hề có thị trường phi lợi nhuận và người ta cũng chẳng có thể dùng
luật lệ để áp đặt những hành vi vô vị lợi. Tuy nhiên, thị trường cũng như chính
trị luôn cần đến những con người sẵn sàng trao tặng cho nhau”[35].
Vào giai đoạn khủng hoảng này, những kinh nghiệm mang dấu
ấn hy vọng nhất, chính là những cố gắng để thiết lập tình liên đới và mối tương
quan mới giữa người với người. Chính vì vậy, để đạt tới một phát triển toàn
diện và hài hòa thì không thể thiếu vắng “bàn tay liên đới” của xã
hội dân sự. Giáo chủ Biển Đức XVI mời gọi mọi người hăng hái nhân rộng hành
động nhân ái, liên đới, chia sẻ, vô vị lợi…
[1] Xin xem UNDP, Human Development Report 1993, Oxford University
Press, New York,1993; Paul A. Samuelson & William D. Nordhaus, Kinh tế học, bản dịch tiếng Việt,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 199715; David Begg, Kinh tế học, bản dịch tiếng Việt,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1992; Tony Killick, Nền kinh tế
thích nghi, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; Trần Hoàng Kim,
Trần Hữu Thực, Dư Văn Vinh, Kinh tế thị
trường & Nghề giám đốc, NXB Thống Kê, Hà Nội, 1993; Lương Hữu Định,
Trần Du Lịch, Võ Thanh Thu..., Kinh tế Việt
Nam. Giai đoạn kinh tế chuyển đổi, NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1996; Vũ Mộng
Lan, Kinh tế thị trường
trong chế độ Việt Nam hiện nay, Định Hướng (Pháp), số 14,1997,tr.47-63.
[3] Paul A. Samuelson & William D. Nordhaus, Kinh tế học, bản dịch tiếng Việt, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 199715, tr.
69.
[6] Xem Nguyễn-Thái-Hợp, “É il mercato la
panacea universale dello sviluppo?”, in La Società, (Verona, Italia) số 3,
1996, tr.546-560.
[13] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý & Hòa
bình, Tóm lược Học thuyết Xã
hội của Giáo Hội Công giáo, số 346.
[22] Giáo lý Hội
Thánh Công giáo viết: “Phát triển kinh
tế và gia tăng sản xuất đều nhằm phục vụ nhu cầu của con người. Đời sống kinh
tế không chỉ nhằm vào việc gia tăng các sản phẩm, lợi nhuận hoặc quyền lực,
nhưng trước tiên là để phục vụ con người: con người toàn diện và toàn thể cộng
đồng nhân loại. Hoạt động kinh tế được điều hành theo những phương pháp riêng,
nhưng phải tôn trọng các khuôn khổ pháp lý và công bằng xã hội, để đáp ứng ý
định của Thiên Chúa về con người ” (số 2426); Xin coi Tóm lược …, số 349-350.
[26] Xem J. Maritain, La personne et le bien commun và L’Homme et
l’État, in Oeuvres complètes,
t. IX, Ed. Univ. Fribourg, Suisse, 1989.
[27] Ngân hàng quốc tế, Informe sobre el Desarrollo mundial 1991: La tarea
acuciante de desarrollo, Washington,
D.C.,1991, tr. 1-2.
[28] M. Camdessus, “El mercado y el Reino. La
doble pertenencia”, in Criterio (Mexico), 10-9-1992, tr. 480.
[29] BID-UNDP, Reforma social y pobreza. Hacia una agenda integrada de
desarrollo, Washington, D.C., 1993, tr. 66.
[30] UNDP, Informe sobre
el desarrollo humano 1993, Madrid, 1993,
tr.4; xem CEPAL, Equidad y
transformación productiva: un enfoque integrado, Santiago de Chile,
1992.
[31] N. Bobbio, N. Matteucci, G. Pasquino (a cura
di), Dizionario di
politica, Tea, Torino, 1990; E.
Berti & G. Campanini, Dizionario
delle idee politiche, AVE, Roma, 1993; N. Matteucci, Stato, in Enciclopedia del
Novecento, Istituto della Enciclopedia italiana, Roma, 1984; N. Bobbio & M.
Bovero, Società e Stato nella
filosofia moderna, Milano, 1979; P. Fameti, Sistema politico e società civile, Roma, 1971;
J. Maritain, La persona e il bene
comune, Morcelliana, Brescia, 1976; J.L. Cohen & A. Anato, Civil Society and Political Theory, London,
1990.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét