Lao động xuất hiện với con người và đóng vai trò quan trọng trong lịch sử nhân
loại. Những xung đột chung quanh vấn đề lao động cũng là một trong những xung
đột gay gắt, bi thảm và độc ác nhất suốt dọc lịch sử. Thực trạng đau thương này
được trình bày trong nhiều nghiên cứu lịch sử, kinh tế, xã hội, đạo đức, văn
chương, cũng như trong ca dao tục ngữ của nhiều dân tộc.
Theo thuật
ngữ chuyên môn, lao động ám chỉ việc sử dụng năng lực của con người để biến đổi
tài nguyên thiên nhiên nhằm tạo ra của cải, hàng hóa hay dịch vụ. Nhưng lao
động là một vấn đề rộng lớn và phức tạp hơn nhiều. Người ta có thể nhìn lao
động dưới nhiều góc độ và theo nhiều quan điểm khác nhau: chính trị, xã hội,
kinh tế, phát triển, luân lý, tâm lý, tôn giáo, nhân quyền… Những dòng dưới đây
chỉ muốn giới thiệu lao động của con người theo quan điểm Giáo huấn xã hội của
Công giáo, nghĩa là từ quan điểm thần học luân lý xã hội. Ở đây, “lao động được
xem là vấn đề của con người và nằm ở trung tâm vấn đề xã hội”[1]
17.1. Khái niệm về lao động
Giáo huấn
xã hội của Công giáo thực sự khởi đi từ mối quan tâm đặc biệt đối với “vấn
đề lao động” trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghệ lần I. Ngay
trong những số đầu tiên, thông điệp “Rerum Novarum” đã giới thiệu cho chúng ta
một bức tranh ảm đạm về xã hội đương thời: “Khắp nơi con người hoang mang và âu
lo đợi chờ. Điều đó cho thấy vấn đề này liên hệ đến nhiều vấn đề quan trọng,
đồng thời gây nhiều thao thức, trăn trở cho các vị thông thái, các bậc hiền
nhân, cũng như cho các cuộc hội họp của dân chúng, các luật gia sắc sảo và các
nhà cầm quyền. Dường như không còn vấn đề nào làm xáo trộn tâm trí con người
như vấn đề này”[2].
Trong
thông điệp “Quadragesimo anno” (1931) Đức Piô XI tiếp tục kiếm tìm
những giải pháp mới cho cùng một“vấn đề lao động”. Tuy nhiên, phải
đợi đến trung tuần thế kỷ XX, nhờ cố gắng của nhiều tư tưởng gia Công giáo, đặc
biệt Teilhard de Chardin, S.J[3], Dominique Chenu, O.P. và L. Lebret, O.P., mới hình thành
một quan niệm thần học về lao động. Trong một quyển sách nhỏ mang tựa đề “Tiến
tới một thần học lao động”, Chenu thú nhận rằng “chắc chắn chúng ta đã có
một luân lý về lao động, vài năm gần đây thậm chí đã có một nền thần bí về lao
động, nhưng chưa có (…) một thần học lao động”[4], nghĩa là một quan điểm thần học nhìn lao động như một
trong những thành phần thiết yếu nhờ đó con người biến đổi thiên nhiên, kiến
tạo thế giới và xây dựng chính lịch sử của riêng mình.
Tư tưởng
thần học của Chenu đã giúp người Công giáo vượt qua quan niệm tiêu cực cho rằng
lao động đích thị là hình phạt do tội nguyên tổ, để tái khám phá giá trị nhân
bản và ý nghĩa cứu độ của lao động. Đối với ông, “lao động là yếu tố của nhân
bản hóa (humanisation) khi trở thành trụ cột của xã hội hóa (socialisation) nhờ
đó nhân loại vượt qua một giai đoạn quyết định trong hành trình tập thể”[5].
Đức Gioan
XXIII ghi nhận khuynh hướng thời đại đề cao việc thủ đắc kiến thức, có nghành
nghề chuyên môn và có thu nhập do lao động hơn là chỉ sống nhờ sở hữu tài sản.
“Thái độ này phù hợp với đặc điểm tự nhiên của lao động. Vì phát xuất trực tiếp
từ nhân vị, lao động phải chiếm vị thế ưu tiên trên việc chiếm hữu các tài sản
vật chất, là những gì do bản chất của chúng chỉ là phương tiện. Một số người
coi đây như một bằng chứng tiến bộ của nhân loại”[6].
Trước
những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự kiện con người không ngừng nới rộng
sự thống trị trên thiên nhiên, Công đồng Vatican II tiếp tục nêu câu hỏi về ý
nghĩa và giá trị của lao động. Công đồng nhìn nhận rằng “tất cả nỗ lực vĩ đại,
trải dài qua các thế kỷ, nhờ đó con người cải thiện điều kiện sống cho phù hợp
với ý định của Thiên Chúa. Thật vậy, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa,
con người đã lãnh nhận sứ mệnh chinh phục Trái đất, cùng với tất cả những gì
chứa đựng trong đó”. Các Kitô hữu không đối lập tài năng và công trình của con
người với quyền năng của Thiên Chúa, cũng chẳng coi thụ tạo có lý trí như địch
thủ của Đấng Tạo Hóa, trái lại xác tín rằng “những thành công của nhân loại là
biểu hiệu sự vinh quang của Thiên Chúa và là kết quả ý định khôn lường của
Người”[7].
Từ quan
điểm thần học mới về tạo dựng và cứu độ, Công đồng xác quyết giá trị tích cực
của lao động: “Thông thường, nhờ lao động, con người đảm bảo nhu cầu sinh tồn
cho bản thân và cho gia đình, liên kết với các anh chị em và phục vụ họ, có thể
thực hiện công tác bác ái đích thực và góp phần kiện toàn công trình sáng tạo
của Thiên Chúa. Hơn nữa, chúng ta biết rằng, với việc dâng hiến lao động của
mình cho Thiên Chúa, con người tham dự vào chính công cuộc cứu độ của Đức Kitô,
Đấng đã đem đến cho lao động một giá trị tuyệt vời khi Người lao động bằng
chính đôi tay của mình tại Nazareth”[8].
Đức Gioan
Phaolô II tiếp nối luồng tư tưởng thần học ở trên và đã cống hiến cho “thần học
lao động” những đóng góp rất độc đáo. Theo ngài, “danh từ lao
động bao gồm tất cả mọi hoạt động do con người thực hiện dưới bất cứ
hình thức và hoàn cảnh nào. Nói cách khác, lao động diễn tả
tất cả các hoạt động muôn hình vạn trạng mà con người có khả năng và được hoạch
định để thực hiện do chính bản tính nhân loại. Được tạo dựng theo hình ảnh
Thiên Chúa trong thế giới hữu hình và được chỉ định làm chủ Trái đất trong thế
giới ấy, do đó ngay từ khởi thủy con người đã được mời gọi để lao động. Lao
động trở thành một trong những đặc tính phân biệt con người với tất cả
các tạo vật khác” [9]. Con vật không lao động theo nghĩa chặt, bởi vì hoạt động
của chúng luôn gắn chặt với bản năng và nhu cầu sinh tồn. Càng không thể áp
dụng quan niệm “lao động” này cho máy móc và các phương tiện sản
xuất khác. “Chỉ duy con người có khả năng lao động. Chỉ có con người mới thực
hiện trọn vẹn lao động và nhờ lao động thể hiện sự hiện hữu của mình trên Trái
đất”[10].
Suốt dọc
lịch sử nhân loại, chính lao động đã là nguồn tạo ra của cải[11], đồng thời là công cụ khống chế thiên nhiên, biến đổi thế
giới và giải quyết tình trạng nghèo đói. Nhờ lao động con người nhân hóa thiên
nhiên, cũng như biến đổi xã hội, làm cho chúng mỗi ngày đẹp và thân thiện với
con người hơn. Đức Gioan Phaolô II gọi đây là chiều kích khách quan của lao
động hay vai trò của kỹ thuật chuyên môn. Thật vậy, tính nhân văn phong phú, đa
dạng và độc đáo trong tiến trình “chế ngự Trái đất”, kể từ buổi sơ khai, ngang
qua giai đoạn nông nghiệp, cho đến nền kinh tế tri thức hôm nay, làm nổi bật
giá trị và ý nghĩa lao động của con người.
“Khi nhờ
lao động để chế ngự Trái đất và củng cố uy quyền của mình trên thế giới hữu
hình, thì trong mỗi trường hợp và trong mỗi giai đoạn của tiến trình ấy, con
người luôn nằm trên định hướng nguyên thủy của Đấng Tạo Hóa (…). Đây là một
tiến trình phổ quát: bao gồm tất cả mọi người, bao gồm mỗi thế hệ,
mỗi giai đoạn phát triển kinh tế và văn hóa (…). Tất cả và mỗi người, theo một
cách thức chính đáng và dưới muôn hình vạn trạng, đều tham dự vào tiến trình
khổng lồ này, ngang qua đó, con người “chế ngự Trái đất” bằng chính lao động”[12].
17.2. Ý
nghĩa nhân bản của lao động
Sâu xa hơn
nữa, Đức Gioan Phaolô II đề nghị tìm hiểu lao động theo chiều kích chủ
quan: chính con người là chủ thể của lao động. Bất kể nội dung
khách quan của lao động là gì và cho dù khoa học kỹ thuật phát triển đến đâu đi
chăng nữa, thì con người vẫn là chủ thể của lao động. Đây là một chủ thể có ý
thức, tự do và nhân vị, nghĩa là một hữu thể có khả năng hành động một cách có
kế hoạch và hợp lý, có khả năng tự quyết và hướng tới việc thực hiện bản thân.
Ở thời
thượng cổ, người ta phân chia nhân loại thành từng nhóm dựa trên việc làm. Họ
khinh miệt lao động cơ bắp và giao nó cho các nô lệ, vì cho rằng nó không xứng
đáng với người tự do. Kitô giáo đã đem đến một thay đổi nền tảng về quan niệm
lao động: “Khởi đi từ nội dung của sứ điệp Tin Mừng và, trên hết, từ sự kiện
Đức Kitô, tuy là Thiên Chúa, đã nên giống chúng ta về mọi phương diện, đã dành
phần lớn thời gian của cuộc đời dương thế để lao động chân tay nơi
xưởng mộc. Sự kiện này, tự nó, là bằng chứng hùng hồn nhất để xây dựng “Tin
Mừng về lao động”.Kể từ đó, căn bản để xác định giá trị của lao động nhân
loại, không hệ tại nơi thể loại lao động được thực hiện, mà nơi sự kiện tác
nhân đảm nhận lao động là một nhân vị. Nguồn gốc phẩm giá của lao động không
nên tìm kiếm nơi chiều kích khách quan, mà nơi chiều kích chủ quan”[13].
Dựa trên
quan điểm thần học đó, Đức Gioan Phaolô II quả quyết: “Căn bản đầu tiên để
thẩm định giá trị của lao động là chính con người, chủ thể của lao động.
Điều này nối kết trực tiếp với một hệ luận rất quan trọng mang tính đạo đức:
thực sự con người được chỉ định và mời gọi lao động, nhưng trước hết lao động
là “vì con người”, chứ không phải con người “vì lao động”. Với
kết luận này, chúng ta công nhận sự ưu việt nơi ý nghĩa chủ quan của lao động
đối với ý nghĩa khách quan”. Mặc dù lao động của con người có thể tạo nên một
giá trị khách quan ít hoặc nhiều khác nhau, nhưng theo quan điểm của Giáo huấn
xã hội của Giáo Hội “mỗi một lao động được đánh giá, trước hết,căn cứ trên
phẩm giá của chính chủ thể lao động, nghĩa là giá trị của nhân vị,
của người thực hiện lao động ấy”.Rốt cuộc, “mục đích của
lao động” – bất kể là thứ lao động nào, ngay cả những lao
động tầm thường và khiêm tốn nhất – vẫn “luôn luôn là chính con người”[14].
Cũng như
mọi giá trị khác của cuộc đời, lao động cũng phải trả giá: vất vả và
mệt nhọc luôn gắn liền với lao động của con người. Đây là một sự kiện
tổng quát, mà mọi người đều cảm nghiệm và nhìn nhận. Nó không những bám chặt
vào mồ hôi, nước mắt của người nông dân trên đồng ruộng và người công nhân
trong xưởng thợ, mà còn trở thành thân quen với các chuyên viên kỹ thuật, các
bác sĩ, các doanh nhân, giới trí thức, cũng như các bà nội trợ cực nhọc lo lắng
việc nhà và vất vả giáo dục con cái. Tuy nhiên, theo diễn ngữ của thánh Tôma
Aquinô, đây chính là một “cực nhọc hồng phúc” (bonum arduum)[15], bởi vì lao động mang trong mình một dấu ấn đặc biệt của
con người và của nhân loại:chúng ta trở nên người hơn trong và nhờ lao động.
Lao động trở thành một phương tiện ngang qua đó con người thực hiện vai trò
“sáng tạo” để nhân hóa thiên nhiên và thể hiện sứ vụ làm người của mình.
Thông điệp
“lao động của con người” đã thành công trong việc làm sáng tỏ ý
nghĩa nhân bản của lao động: “Lao động mang dấu ấn riêng của con người
và của nhân loại, dấu ấn của một con người hoạt động trong một cộng đồng nhân
loại. Dấu ấn này xác định phẩm chất nội tại của con người và, trong một ý nghĩa
nào đó, tạo nên bản tính con người”[16]. Nói rõ hơn, “nhờ lao động, con người không những
biến đổi thiên nhiên để thỏa mãn các nhu cầu của mình, mà còn thực
hiện chính mình như con người. Và, trong một nghĩa nào đó, “họ trở
nên người hơn”[17].
17.3. Ưu tiên của lao động trên tư bản
Nguyên tắc
“ưu tiên của con người trên sự vật”, cũng như “ưu tiên của chủ thể
lao động” trên “đối tượng lao động” sẽ dẫn đến một nguyên
tắc căn bản khác đó là “ưu tiên của lao động” trên “tư
bản”. Theo Đức Gioan Phaolô II, nguyên tắc này là một chân lý hiển nhiên
phát xuất từ thực tại lịch sử, “liên quan trực tiếp với tiến trình sản xuất,
qua đó lao động luôn luôn là nguyên nhân hiệu năng, trong khi
“tư bản”, tức là toàn bộ các phương tiện sản xuất, chỉ là một phương
tiện hay nguyên nhân dụng cụ”[18].
Dựa trên
nguyên tắc nền tảng đó, thông điệp “lao động của con người” cống
hiến một đóng góp rất độc đáo cho giáo huấn truyền thống về mối tương quan giữa
lao động và tư bản. Thông điệp hiểu tư bản là “toàn bộ phương tiện, kết quả của
gia tài lịch sử do lao động tạo nên” và đi đến kết luận hiển nhiên: “Toàn bộ
các phương tiện sản xuất, mà trong một ý nghĩa nào đó được coi là đồng nghĩa
với tư bản, đều phát xuất từ lao động và mang dấu ấn của lao
động con người”[19]. Chúng ta có thể nói mạnh hơn: “Nếu đích thực tư bản được
hiểu là toàn bộ phương tiện sản xuất cũng chính là sản phẩm của lao động từ
nhiều thế hệ, như vậy phải công nhận rằng tư bản này được gia tăng không ngừng
là nhờ lao động được thực hiện với toàn bộ những phương tiện sản xuất”[20].
Không ai
phủ nhận rằng nhân loại mỗi ngày một giàu hơn, phát triển hơn và khoa học kỹ
thuật ngày càng tối tân hơn. Tuy nhiên, nếu không có lao động vận hành, bảo trì
và không ngừng tối tân hóa chúng, thì máy móc tối tân đến đâu đi chăng nữa cũng
vô ích, nếu không muốn nói chỉ là đồ phế thải. Trong ý nghĩa đó, tư bản, xét
như là tổng thể những phương tiện sản xuất, chỉ có thể được phát huy và trở
thành hữu dụng cho nhân loại là nhờ lao động của nhiều người, trải qua biết bao
nhiêu thế hệ.
Hệ luận
tất nhiên là cần đặt lại mối tương quan sinh tử giữa lao động và tư bản. Nếu tư
bản phát xuất do lao động và để phục vụ lao động thì “không thể chiếm hữu những
phương tiện sản xuất này để chống lại lao động, cũng chẳng có thể chiếm hữu
chúng để mà chiếm hữu, bởi vì lý do hợp lý duy nhất của hành động sở hữu, cho
dù sở hữu riêng hay sở hữu chung hoặc tập thể … là để phục vụ lao động”[21]. Nói rõ hơn, Giáo Hội Công giáo không thể chấp nhận chủ
nghĩa “tư bản cực đoan” và vẫn duy trì quan điểm truyền thống về “vận mệnh
phổ quát của tài sản”.
Xung đột
giữa “lao động” và “tư bản” hay đúng hơn giữa “thế
giới tư bản” và “thế giới lao động” thực sự bùng nổ với
cuộc cánh mạng công nghệ khi để kiếm sống hàng triệu người “phải bán sức lao
động cho các chủ xí nghiệp và giới chủ nhân này, do sự thúc đẩy của nguyên tắc
tối đa hóa lợi nhuận, chủ trương trả cho người lao động mức lương thấp bao
nhiêu có thể. Ngoài ra, phải kể thêm những cách thế bóc lột khác, cùng với việc
thiếu an toàn trong lao động, thiếu bảo hiểm sức khỏe và đời sống cho người
thợ, cũng như gia đình”[22].
Với thời
gian, xung đột này đã bùng nổ thành cuộc chiến ý thức hệ. Cuộc
chiến gay gắt này được thể hiện rõ nét nhất giữa “chủ nghĩa tự
do, được hiểu như ý thức hệ của chủ nghĩa tư bản, và chủ nghĩa
Mácxít, được mệnh danh là “chủ nghĩa xã hội” hay “chủ nghĩa
cộng sản”, tự xưng là phát ngôn viên của giai cấp thợ thuyền và ngay cả của
tất cả giới vô sản thế giới. Và như thế, cuộc tranh chấp hiện thực giữa thế
giới tư bản với thế giới lao động đã biến thành cuộc đấu tranh giai
cấp, được tiến hành với những phương pháp không chỉ mang tính chất ý
thức hệ, mà trước tiên có tính chính trị”[23].
Hôm nay,
chúng ta đã có một quãng lùi tương đối để hiểu và đánh giá hai quan điểm đối
kháng này. Nói một cách giản lược, hai chủ nghĩa này tuy đối kháng và có tham
vọng triệt tiêu nhau, nhưng trên thực tế cùng thuộc về một “nền văn minh duy
vật phiến diện, qua đó người ta quan trọng hóa chiều kích khách quan của lao
động, trong khi chiều kích chủ quan – nghĩa là tất cả những gì liên quan trực
tiếp hay gián tiếp đến chủ thể lao động – thì lại bị hạ xuống hàng thứ yếu”[24].
Khỏi cần
nhắc lại mọi người đều rõ chủ nghĩa tư bản coi lao động như “một thứ hàng
hóa”. Mặc dù từ thời tư bản hoang dã cho đến hôm nay đã có rất nhiều
biến đổi trong thế giới tư bản nhờ các cuộc canh tân tổ chức xí nghiệp, với sự
xuất hiện các xí nghiệp đa quốc gia, các nghiệp đoàn và luật lao động. Tuy
nhiên, trên tổng thể, chủ nghĩa tư bản vẫn chưa thoát ra khỏi những tiền đề của
“chủ nghĩa kinh tế duy vật”, vẫn tiếp tục nhìn lao động như “một thứ hàng
hóa đặc thù”.
Dưới cái
nhìn của Đức Gioan Phaolô II, sai lầm căn bản của chủ nghĩa tư bản cực đoan là
chủ trương “triệt để bảo vệ quyền tư hữu của phương tiện sản xuất như một “giáo
điều” bất khả xâm phạm trong lãnh vực kinh tế. Nguyên tắc tôn trọng lao
động đòi hỏi phải kiểm điểm quyền tư hữu đó cả về lý thuyết lẫn thực hành”[25]. Dĩ nhiên, chế độ tư bản đã biết tự điều chỉnh và sửa sai
mô hình “tư bản hoang dã”, nhưng “những sai lầm của tư bản hoang dã vẫn có thể
tái diễn ở bất cứ nơi nào trong mức độ con người bị xếp ngang hàng với
toàn thể phương tiện vật chất để sản xuất, nhưng không được đối xử theo phẩm
giá đích thực của lao động, nghĩa là như chủ thể và tác giả, do đó, như mục
đích của tất cả tiến trình sản xuất”[26].
Ở cực bên
kia, chủ nghĩa tập thể hóa hay chủ nghĩa xã hội, tuy đối kháng triệt để với chủ
nghĩa tư bản, cũng xây dựng trên cùng một quan niệm duy vật và duy kinh tế.
Thật vậy, “chủ nghĩa duy vật, ngay cả dưới dạng thức biện chứng, cũng không có
khả năng cung cấp những nền tảng đầy đủ và quyết định cho việc suy tư về lao
động con người, theo đó quan niệm “ưu tiên của con người” trên sự vật có thể
được nhìn nhận và hỗ trợ một cách thích đáng và vững chắc. Ngay trong chủ nghĩa
duy vật biện chứng, con người trước tiên không phải là chủ thể của lao động và
nguyên nhân tác thành của tiến trình sản xuất, mà chỉ được đánh giá và hiểu như
lệ thuộc vào vật chất, như một thứ “tổng hòa” những tương quan kinh tế và sản
xuất thịnh hành ở một giai đoạn lịch sử nhất định nào đó”[27].
Như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa Mácxít đã
biến xung đột hiện thực giữa thế giới lao
động và thế giới tư bản thành cuộc đấu tranh giai cấp có hệ thống và bất khoan nhượng. Hơn thế nữa,
chủ nghĩa Mácxít còn coi cuộc đấu tranh này như động lực của lịch sử và là “con
đường duy nhất để loại trừ những bất công giai cấp hiện hữu trong xã hội và
đồng thời tiêu diệt chính các giai cấp. Để thực hiện chương trình này họ cho
rằng trước tiên phải “tập thể hóa” các phương tiện sản xuất để, qua việc chuyển giao các
phương tiện này từ tư nhân sang tập thể, nhằm bảo vệ lao động con người khỏi bị
bóc lột”. Suốt dọc một thế kỷ vừa qua, các nhóm và các đảng phái chính trị chịu
ảnh hưởng của ý thức hệ Mácxít đã chủ trương sử dụng “nguyên tắc vô sản chuyên chính và gây ảnh hưởng dưới nhiều hình thức, ngay
cả sử dụng áp lực cách mạng, nhằm nắm độc quyền cai
trị trong mỗi một xã hội. Họ chủ trương loại trừ tận gốc hình thức tư
hữu của các phương tiện sản xuất để thiết lập chế độ tập sản”[28].
Với kinh nghiệm bản thân về những ảo tưởng,
khuyết điểm và vong thân hàm chứa trong chủ nghĩa Cộng sản hiện thực, Đức Gioan
Phaolô II đã phê bình chủ nghĩa cộng sản khởi đi từ chính quan niệm xã hội hóa
mà chủ nghĩa này chủ trương. Theo ngài, không thể xóa bỏ đối kháng và xung đột
giữa thế giới lao động với thế giới tư bản bằng cách thẳng tay loại trừ hình
thức tư hữu của các phương tiện sản xuất, vì khi tất cả các phương tiện sản
xuất nằm trong tay Nhà nước, hay đúng hơn trong tay nhóm người lãnh đạo, không
đương nhiên là quyền tư hữu đã được xã hội hóa. Trong rất nhiều trường hợp, chế
độ tập thể hóa đã khai sinh những “tư bản đỏ”, độc quyền nắm giữ bộ máy quản
trị và các phương tiện sản xuất. Vì thế, “chúng ta chỉ có thể gọi là “xã hội
hóa” khi chủ thể tính của xã hội được bảo
đảm, nghĩa là nếu mỗi người, dựa trên lao động của mình, có đầy đủ tư cách để
coi mình như “đồng sở hữu” trên công
trường lao động rộng lớn trong đó mọi người cùng dấn thân. Một trong những con
đường có thể sử dụng để đạt tới mục tiêu này là cố gắng liên kết lao động với
quyền sở hữu vốn và hình thành những cơ cấu trung gian mang tính chất kinh tế,
xã hội, văn hóa. Các cơ cấu này được hưởng một sự tự lập thực sự đối với chính
quyền, đồng thời theo đuổi mục tiêu chuyên biệt bằng cách duy trì mối tương
quan chặt chẽ, cộng tác chân thành và tuân thủ những yêu sách của công thiện
công ích. Các cơ cấu trung gian này mang hình thức và bản chất của một cộng
đồng sinh động. Như vậy, các thành viên của cộng đồng sẽ được đối xử như nhân
vị và được khuyến khích tích cực tham gia vào cuộc sống”[29].
Dĩ nhiên,
không bao giờ có chuyện yêu cầu “chủ nghĩa xã hội” trở thành “chủ
nghĩa tư bản”. Đức Gioan Phaolô II nêu lên một đề xuất khác căn cơ hơn: yêu
cầu XHCN duyệt xét lại nền tảng lý thuyết và thực hành của mình, đồng thời làm
sao thiết lập một “xã hội dân sự” sinh động, có thực quyền và thực chất,
trong đó có giải pháp mới cho những xung đột cố hữu giữa thế giới lao động và
thế giới tư bản. Yêu sách “gạn đục khơi trong” này cũng được đặt ra cho
chủ nghĩa tư bản: Không cần phải biến thành chủ nghĩa xã hội, nhưng cần nghiêm
chỉnh xem lại mối tương quan với thế giới lao động, nhất là cần kiểm tra lại
quan niệm “giáo điều” về tư hữu.
Thông điệp “Lao động của con người” đề nghị một giải pháp khác. Đây là một
giải pháp xây dựng trên nguyên tắc đạo đức về “ưu tiên của con người” trên sự vật và “ưu tiên của lao động”
trên tư bản. Nguyên tắc này là “một định đề thuộc lãnh vực luân lý xã hội.
Nhưng nó có tầm quan trọng căn bản đối với hệ thống xây dựng trên quyền tư hữu
của các phương tiện sản xuất, cũng như trong hệ thống mà quyền tư hữu đó bị hạn
chế triệt để. Theo một ý nghĩa nào đó, lao động bất khả phân ly với tư bản và
không chấp nhận bất cứ hình thức đối kháng nào, nghĩa là không chấp nhận việc
tách rời và đối lập với các phương tiện sản xuất, một hệ quả của những tiền đề
thuần túy kinh tế, đã đè nặng trên cuộc sống nhân loại suốt dọc mấy thế kỷ vừa
qua. Khi con người sử dụng toàn bộ các phương tiện sản xuất để lao động, họ ước
mong rằng thành quả của lao động hữu ích cho bản thân và cho người khác, đồng
thời trong tiến trình lao động, họ có cơ hội xuất hiện như “đồng - trách nhiệm”
và “đồng - tác giả” trong công tác lao động mà họ phụ trách”[30].
Thông điệp “Lao động của con người” ban hành năm 1981. Dù mới vỏn vẹn chưa đầy
20 năm, nhưng lịch sử đã mấy lần sang trang! Tuy nhiên, hiện tượng Toàn cầu
hóa, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và nền kinh tế tri thức hôm nay
dường như đang củng cố cho nhận định và đề xuất của thông điệp.
17.4- Bổn phận và quyền lợi đối với lao động
Giáo huấn
xã hội của Công giáo luôn nhấn mạnh đến nghĩa vụ lao động và trình bày những lý
do căn bản để biện minh cho nghĩa vụ này: mỗi người phải lao động để nuôi sống
bản thân[31], để chu cấp cho gia đình và để góp phần vào việc phát
triển xã hội. Triệt để hơn, như chúng ta đã thấy, chính lao động giúp con người
làm người hơn và cộng tác vào chương trình sáng tạo, cũng như cứu độ của Thiên
Chúa.
17.4-1- Qui tắc đạo đức
Công đồng
Vatican II tuyên bố: “Mỗi người có bổn phận lao động một cách cần mẫn, cũng như
có quyền có việc làm. Xã hội có nhiệm vụ, tùy theo hoàn cảnh riêng biệt, giúp
các công dân tìm được công ăn việc làm”[32]. Vấn đề gai góc nằm ở chỗ là làm sao kiến tạo được một cơ
cấu kinh tế – chính trị tôn trọng quyền lao động của các công dân và đủ khả
năng tạo nên việc làm cho mọi người? Mặc dù việc thực hiện quyền lao động lệ
thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện văn hóa, cũng như kinh tế, xã hội, chính
trị, nhưng ít nhất cần tuân thủ những đòi hỏi đạo đức sau đây:
a)- Không ai được quyền hưởng lợi nhuận, bất chấp quyền lao
động và hậu quả mất việc làm của những người khác. Trong chế độ tư bản, chẳng
hạn, không thể chỉ nghĩ đến lợi nhuận, mà chẳng quan tâm đến việc tạo thêm việc
làm. Ngoài ra, cần lưu ý là trong một số trường hợp, sự kiện một người đảm
nhiệm đồng thời nhiều việc làm có thể là một biểu hiệu tính năng động của nền
kinh tế mở, nhưng rất có thể cũng cho thấy “một lỗi cấu trúc” nào đó của một
nền kinh tế. Phải chăng vì mức lương quá thấp hay vì việc làm không ổn định nên
một số người phải làm nhiều việc mới đủ sống, trong khi đó có những người khác
lại không có việc làm?
b)- Nhà nước cần đặc biệt quan tâm đến hiện tượng thất
nghiệp và cố gắng giải quyết “căn bệnh hiểm nghèo” đang lây truyền trong nhiều
nước. Trước hết, thất nghiệp, nhất là thấp nghiệp kéo dài, là “một tai họa và
khi xảy ra trên một quy mô rộng lớn, sẽ trở thành thảm trạng xã hội. Vấn đề trở
nên đặc biệt đau lòng khi đa số nạn nhân là giới trẻ, sau khi được chuẩn bị qua
đào tạo thích hợp về văn hóa, kỹ thuật và nghề nghiệp, lại không tìm được việc
làm và cảm thấy thất vọng vì không có việc làm như lòng mong ước để đảm nhận
phần trách nhiệm của mình trong công cuộc phát triển kinh tế và xã hội của cộng
đồng”[33].
Để đối phó với nạn thất nghiệp và đảm bảo công ăn việc làm
cho mỗi người, trước hết cần cải tổ chương trình giáo dục cho phù hợp với nhu
cầu thời đại. Tiếp đến, cần sự hỗ trợ của các tổ chức và cơ quan quốc tế. Chính
các hiệp ước hay thỏa hiệp quốc tế giúp giải quyết vấn đề lao động một cách hữu
hiệu nhất và làm giảm thiểu sự chênh lệch về mức sống của người lao động trên
thế giới hôm nay.
c)- Quyền có việc làm thường nối kết với vấn đề di dân.
Trong nhiều trường hợp, đây là một hình thức để nhìn nhận và bảo đảm quyền lao
động. “Cần cố gắng tránh mọi hình thức phân biệt đối xử về lương bổng hay điều
kiện làm việc đối với các công nhân đến từ nước khác hay vùng khác hiện đang
góp phần vào công cuộc phát triển một nước hay một miền. Hơn nữa, mọi thành
phần xã hội, đặc biệt nhà cầm quyền, phải đối xử với họ như những nhân vị, chứ
không phải chỉ là những dụng cụ sản xuất: tạo điều kiện để họ có thể đoàn tụ
gia đình và giúp đỡ họ kiếm được chỗ ở thích hợp”. Tuy nhiên, giải pháp lý
tưởng vẫn là làm sao đưa vốn, công nghệ và “tạo việc làm ngay tại quê quán của
họ”[34].
Trên thực
tế người di dân đã phải đảm nhận những công việc nhọc nhằn và điều kiện làm
việc tồi tệ nhất, nhưng họ lại phận đồng lương rẻ mạt và bị bạc đãi nhất. Đức
Phaolô VI yêu cầu một bộ luật thích hợp về lao động nhập cư: “Phải cấp tốc vượt
qua quốc gia chủ nghĩa hẹp hòi đối với người lao động nhập cư để tạo một quy
chế công nhận quyền được di trú, tạo thuận lợi cho việc hội nhập, tạo điều kiện
giúp họ thăng tiến nghề nghiệp và có chỗ ở tương xứng, để có thể đoàn tụ gia
đình”[35].
17.4.2- Vấn đề lương bổng
Ngay ở
cuối thế kỷ XIX, Đức Leô XIII nhìn nhận rằng khi cho người khác mượn sức lao
động hay kỹ năng, người lao động có “thực quyền không những để đòi được trả
lương, mà còn được sử dụng nó theo ý muốn của mình”[36]. Đức Piô XI cho rằng mức lương này “phải đủ để nuôi sống
bản thân và gia đình”. Theo thông điệp “Mẹ và Thầy”, không thể hoàn
toàn phó mặc cho quy luật thị trường hay các chủ nhân ông tự do xác định mức
lương, mà cần quy định một mức lương hợp lý cho phép người lao động duy trì mức
sống xứng đáng với nhân phẩm và có khả năng chu toàn trách nhiệm với gia đình.
Vậy, để qui định mức lương cần lưu ý đến những điểm sau đây: Năng lực sản xuất
của từng người, tình trạng kinh tế của xí nghiệp, những đòi hỏi công ích của
mỗi nước[37].
Đức Gioan
Phaolô II xem lương bổng trả cho người lao động như một thứ hàn thủy biểu để đo
lường mức độ công bằng và đạo đức của một chế độ. Không trả lương hay trả lương
không đúng hạn hoặc không tương xứng là vi phạm công bằng. “Trong mỗi trường
hợp, đồng lương tương xứng trở nên một xác minh cụ thể về công bằng của tất cả
hệ thống kinh tế – xã hội và cũng như về sự vận hành hợp lý của nó. Dĩ nhiên,
đây không phải là xác minh duy nhất, nhưng là một xác minh quan trọng và có thể
nói là xác minh chủ chốt”[38].
17.4.3- Đình công
Khi xảy ra
những tranh chấp về kinh tế – xã hội, Giáo huấn xã hội của Công giáo yêu cầu ưu
tiên tìm những giải pháp ôn hòa qua cuộc đối thoại chân thành giữa các nhóm
liên hệ để tránh những thiệt hại nặng nề cho xí nghiệp nói riêng và nền kinh tế
nói chung. Khi tất cả các phương pháp đó trở thành vô hiệu thì “đình công là
phương tiện cần thiết(…) để bênh vực quyền lợi và đạt được nguyện vọng chính
đáng của người lao động”[39].
Đây là
“một loại tối hậu thư” nhằm gây áp lực với chủ nhân, với Nhà nước hay công luận
để quyền lợi và yêu sách chính đáng của người lao động được nhìn nhận. Nhưng
đình công sẽ trở thành “bất hợp pháp về mặt luân lý khi kèm theo bạo động, hoặc
hơn thế nữa, nếu được sử dụng để nhằm những mục tiêu không trực tiếp liên hệ
đến các điều kiện làm việc hoặc những mục tiêu nghịch với công ích”[40].
17.4.4- Vai trò của nghiệp đoàn
Nghiệp
đoàn đóng vai trò quan trọng trong nối kết và bảo vệ quyền lợi sinh tử của
người lao động. Người lao động có quyền thành lập hay gia nhập các nghiệp đoàn.
“Trách nhiệm của nghiệp đoàn là bảo vệ quyền lợi hiện thực của người lao động
trong tất cả mọi lãnh vực nơi mà quyền lợi của họ bị đe dọa. Kinh nghiệm lịch
sử cho thấy các tổ chức thuộc loại này là một nhân tố rất cần thiết cho đời
sống xã hội, đặc biệt trong các xã hội công nghiệp hóa tân tiến”[41].
Đối với
Giáo huấn xã hội của Giáo Hội, nghiệp đoàn phải là những tác nhân đẩy mạnh cuộc
tranh đấu cho công bằng xã hội, chứ không thể trở thành phản ảnh thuần túy của
một cuộc đấu tranh giai cấp. “Chắc chắn, nghiệp đoàn là phát ngôn
nhân của cuộc tranh đấu cho công bằng xã hội, cho quyền lợi chính đáng của
người lao động thuộc ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, cuộc tranh đấu này phải
được hiểu như một dấn thân bình thường nhằm đạt tới thiện ích chính đáng. Ở
đây, thiện ích đó tương ứng với nhu cầu và công lao của những người lao động
kết hợp với nhau theo ngành nghề. Nhưng nó không phải là một cuộc đấu
tranh chống lại người khác”[42].
Muốn đẩy
mạnh xản xuất và đưa đất nước đi lên, lao động và tư bản bó buộc phải hợp lực
với nhau. Ngay cả trong những trường hợp mà cuộc đấu tranh cho lao động
mang tính chất đối kháng với những người khác hay nhóm khác thì mục đích
của đối kháng này là nhằm thiết lập công bằng xã hội, chứ không thể chủ trương
tiêu diệt lẫn nhau.
Có những
lần nghiệp đoàn phải đấu tranh rất gắt gao mới có thể sửa chữa một số khuyết
tật cố hữu của chủ nghĩa tư bản và để thực hiện công tác này nghiệp đoàn cần am
hiểu lãnh vực chính trị. Tuy nhiên, “vai trò của các nghiệp đoàn không phải là
“làm chính trị” theo nghĩa thông dụng mà ngày nay người ta thường hiểu.
Các nghiệp đoàn không mang tính chất “đảng phái chính trị” đấu tranh vì quyền
lực và không bao giờ được tùng phục các quyết định của các đảng phái, cũng như
liên hệ quá chặt chẽ với họ. Thực vậy, nếu các nghiệp đoàn làm như thế, thì dễ
dàng xa rời vai trò đặc biệt của mình là bảo vệ quyền lợi chính đáng của người
lao động trong khung cảnh lợi ích chung của toàn thể xã hội. Hành động ngược
lại sẽ trở thành một dụng cụ gây áp lực để thực hiện các mục đích khác”[43].
17.5- Biến chuyển đầy hy vọng và thật bi thảm!
Kể từ cuộc
khủng hoảng năng lượng vào cuối thập niên 70’ của thế kỷ XX, mô hình Nhà nước –
Quốc gia, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, các hệ thống an sinh xã hội… bắt đầu
suy thoái. Hệ thống hưu dưỡng gặp khó khăn do số người lao động giảm, trong khi
đó số lượng người hưu trí luôn tăng cao vì tuổi thọ trung bình mỗi ngày một cao
hơn.
Một giai
đoạn mới đang hình thành. Có người gọi nó là hiện đại hóa II hay hậu hiện đại.
Có người khác nghĩ đến thời toàn cầu hóa hay nền văn minh tri thức. Mặc dù tên
gọi chưa thống nhất, nhưng một điều chắc chắn: thế giới đã đổi thay và đang
sang trang. Nhân loại đang đối diện với một giai đoạn biến đổi đầy cam go, được
đặc trưng bởi vấn đề môi sinh, giảm thiểu lao động có lương, đề cao vai trò của
kiến thức và sáng tạo, gia tăng cá nhân chủ nghĩa, cách mạng thông tin đẩy mạnh
toàn cầu hóa về xã hội – chính trị – kinh tế – văn hóa…
Dưới đây
là vài nét chấm phá về những biến đổi hiện nay để nhận diện và suy nghĩ về
những thách đố mà thời đại đang đặt ra cho lao động của con người.
17.5.1- Lao động trước biến đổi kỹ thuật
Đây là lần
đầu tiên trong lịch sử chúng ta chứng kiến hiện tượng kinh tế tăng trưởng mạnh,
nhưng công ăn việc làm không tăng tương xứng. Lý do đơn giản là tăng trưởng
kinh tế hiện nay lệ thuộc nhiều ở canh tân kỹ thuật, kỹ năng sáng tạo và dịch
vụ, chứ không phải do lao động phổ thông. Thật vậy, kỹ thuật đương đại đã biến
đổi từ nền tảng mô hình sản xuất, hệ thống tổ chức, cũng như vai trò của các
yếu tố sản xuất.
Người ta
nhận thấy ba biến đổi nền tảng. Cái đổi đời thứ nhất liên quan đến mối tương
quan giữa kỹ thuật và kinh tế. Trong quá khứ, của cải và sản phẩm được sản xuất
ra lệ thuộc chặt chẽ vào số lượng lao động mà người ta đã sử dụng. Hôm nay và
hơn nữa trong tương lai, chúng lệ thuộc ở chất lượng lao động, chứ không còn lệ
thuộc ở số lượng lao động như xưa. Thật vậy, biến đổi kỹ thuật làm cho việc
tăng sản lượng lệ thuộc hoàn toàn ở phẩm chất lao động cao và giảm thiểu tới
mức tối đa số lượng lao động phổ thông, cũng như nguyên liệu thiên nhiên. Giá
trị của các sản phẩm cao cấp lệ thuộc rất nhiều ở nghiên cứu khoa học, thiết kế
mẫu mã, quảng cáo, tiếp thị, phục vụ khác hàng… hơn là khâu sản xuất và nguyên
liệu thiên nhiên.
Nói chung,
các nhà dự phóng tương lai đồng ý rằng càng ngày chúng ta sẽ cần ít lực lượng
lao động hơn để sản xuất tất cả của cải mà nhân loại cần thiết. Bất chấp tính
khả thi của những dự đoán nói trên, điều mà không ai có thể phủ nhận là canh
tân kỹ thuật và toàn cầu hóa kinh tế đã tạo nên những biến đổi sâu rộng trong
lãnh vực lao động.
17.5.2- Lao động nông nghiệp
Tại các
nước phát triển, trong mấy thập niên vừa qua, sản phẩm nông nghiệp tăng khoảng
85%, nhưng tỉ lệ lao động trong nông nghiệp cứ giảm dần xuống khoảng 3-5% hiện
nay. Tại Anh Quốc, chẳng hạn, từ năm 1780 đến 1988, người ta ghi nhận một sự
giảm sút khổng lồ về lực lượng lao động trong nông nghiệp: từ 50% giảm xuống
chỉ còn 2,2%. Trong khi đó năng xuất lao động lại tăng 68 lần. Như vậy, lực
lượng lao động trước hết đã di chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp, rồi sau
đó từ công nghiệp sang công nghệ mũi nhọn và dịch vụ.
Chúng ta
gặp thấy tiến trình chuyển đổi lao động này tại tất cả các nước kỹ nghệ hóa. Ở
khắp nơi, tự động hóa và “robot hóa” đang biến đổi cơ cấu kỹ nghệ và tổ chức
lao động. Một nước càng phát triển thì tiến trình vi tính hóa, tự động hóa và
“robot hóa” càng cao. Do đó, càng ngày càng cần nhiều hơn những lao động chuyên
nghiệp cao. Họ đang trở thành “trọng điểm” của sản xuất, trong khi thành phần
lao động phổ thông không còn giữ vai trò chủ chốt như xưa nữa. Công trình xây
dựng đường hầm ngang qua biển Manche được coi là một trong những dự án lớn nhất
ở châu Âu thời hậu chiến. Nhưng vào giai đoạn cao điểm nhất chỉ sử dụng 2000
nhân công, trong số đó 50% là kỹ sư.
Nói cách
khác, tiến trình kỹ nghệ hóa, vi tính hóa, tri thức hóa, robot hóa… ngày càng
đòi hỏi các lao động có chuyên môn và sáng tạo. Sự lớn mạnh của dịch vụ trong
nền kinh tế đương đại càng cho thấy rõ hơn vai trò quan trọng của ngành nghề
chuyên môn. Người lao động phổ thông ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn để tìm
được việc làm tương xứng và phải chấp nhận sự kiện đồng lương của mình mỗi ngày
một giảm sút so với lao động chuyên môn cao.
17.5.3- Công nghệ sinh học
Ngành công
nghệ sinh học, nghĩa là những phương thức sản xuất công nghiệp sử dụng những vi
sinh vật và các quá trình sinh học của chúng, đã tận dụng những thành quả của
sinh học về biến đổi gen để tạo nên những “sản phẩm độc đáo”. Thực ra, từ thuở
xa xưa người ta đã sử dụng kỹ thuật này để sản xuất rượu bằng cách làm cho nho
lên men hoặc chế tạo pho mát (fromage) bằng cách làm đông đặc sữa, tuy nhiên
công nghệ sinh học hôm nay còn muốn biến đổi gen của các sinh vật để tạo nên
một sinh vật khác. Kể từ khi con cừu Dolly xuất hiện, con người đang đào sâu và
nhân rộng sự biến đổi thần kỳ này, để trở thành một “tạo hóa thứ hai”, với
tham vọng tạo nên các loại sự sống mới với đặc tính gen chưa từng có.
Cũng như
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học đang đóng vai trò “một thứ chìa khóa”
để biến đổi tận gốc rễ một loạt công nghệ và dịch vụ. Nếu thế kỷ XX đánh dấu
bởi cuộc cách mạng công nghệ thông tin, thì tiền bán thế kỷ XXI rất có thể sẽ
mang dấu ấn của cách mạng công nghệ sinh học.
17.5.4- Tư bản nhân văn
Với sự phổ
biến của điện thư, điện thoại di động, máy tính cá nhân, vệ tinh, cáp quang,
Internet, mạng toàn cầu (World Wide Web), bất cứ công việc nào cũng có thể chia
nhỏ thành nhiều phần, rồi chuyển chúng đến nhiều nơi trên khắp thế giới. Khai
sinh hiện tượng làm việc từ xa: Nhiều công việc được chuyển từ trung tâm kỹ
nghệ đến những nơi xa xôi, nhưng việc làm lại hiệu quả, năng xuất cao và giá
thành rẻ hơn. Tốc độ kinh hoàng của truyền thông và việc di chuyển dễ dàng hàng
hóa đến mọi nơi trên thế giới cho phép các công ty liên quốc gia đặt nhà máy ở
nhiều nơi: người ta có thể sản xuất một phần quan trọng của sản phẩm tại Mỹ,
phần khác tại Singapore hay Đài Loan hoặc Việt Nam, rồi đóng lại thành sản phẩm
tại một nơi khác và bán ra khắp thế giới[44].
Trong thời
đại toàn cầu hóa, chất xám trở thành tấm hộ chiếu và tư bản nhân văn[45] đóng vai trò chủ động. Chính tư bản nhân văn đang
xác định phẩm chất cũng như hiệu năng lao động của con người. Charles Wheelan
giải thích: “Tư bản nhân văn là toàn bộ các kỹ năng của một cá nhân: học vấn,
sự thông minh, uy tín, tính sáng tạo, kinh nghiệm làm việc, khí lực doanh nhân,
và thậm chí cả khả năng ném một quả bóng rổ thật nhanh, mạnh và chính xác”[46]. Rồi cường điệu hơn, ông viết tiếp: “Ở Mỹ, có một bộ
phận người dân nghèo là bởi vì họ không thể tìm được việc làm. Nhưng đây là một
triệu chứng, chứ không phải là căn bệnh. Vấn đề cơ bản là do họ thiếu các kỹ
năng (hay tư bản nhân văn). Tỉ lệ nghèo ở những học sinh bỏ học ngay từ cấp phổ
thông ở đất nước chúng ta cao gấp 12 lần tỉ lệ nghèo ở những sinh viên tốt
nghiệp đại học. Tại sao Ấn Độ lại là một trong những quốc gia nghèo nhất thế
giới? Lý do chủ yếu là bởi vì 35% dân số nước này mù chữ (đã giảm so với mức
gần 50% cách đây một thập kỷ) hoặc phải sống trong những điều kiện khiến họ
không phát huy được tư bản nhân văn”[47].
17.5.5- Vận may và nguy cơ
Những biến đổi của toàn cầu hóa đang đặt ra rất nhiều vấn
đề và thách đố cho thế giới lao động. Đã qua rồi cái thời: “Nhất nghệ tinh
nhân thân vinh” hay cha truyền con nối. Cũng chẳng còn cái thế giới an
bình: hầu như mọi người đều có việc làm. Nhân loại đang đối diện với một giai
đoạn lao động đa dạng, đầy năng động và sáng tạo, nhưng cũng rất bấp bênh, lao
đao và khốn khổ, vì tỉ lệ thất nghiệp cao, rất dễ bị mất việc làm, phải thường
xuyên đào tạo lại hoặc chuyển sang lãnh vực khác. Lao động độc lập, lao động
ngay tại nhà, lao động động trong các xí nghiệp gia đình hay xí nghiệp vừa và
nhỏ có thể giới thiệu một kinh nghiệm mới về lao động, thân thiện, gần gũi và
nhiều tính nhân văn hơn. Nhưng mặt trái của nó là nhiều khi điều kiện làm việc
khắc nghiệt, lương thấp, thiếu sòng phẳng và bấp bênh.
Cũng như tất cả các biến cố quan trọng khác trong lịch sử
nhân loại, các hiện tượng mới mẻ mà chúng tôi đã trình bày ở trên vừa là vận
may, vừa là nguy cơ. Đối diện với thách đố này, Đức Gioan Phaolô II mời gọi
người lao động sáng suốt tái xác quyết giá trị của lao động và kiếm tìm những
hình thức liên đới mới: “Những thực tế mới mẻ như toàn cầu hóa tài chánh, kinh
tế, thương mại và lao động đang tác động mạnh mẽ trên tiến trình sản xuất,
nhưng không được xâm phạm đến phẩm giá và vị trí trung tâm của con người, cũng
như tự do và dân chủ của các dân tộc. Hành động liên đới, thái độ dấn thân và
khả năng điều khiển những biến đổi triệt để này nếu chưa đưa ra một giải pháp,
thì chắc chắn cũng là một đảm bảo đạo đức cần thiết, bởi vì các cá nhân và các
dân tộc không thể trở thành dụng cụ, nhưng luôn chủ động đối với tương lai của
mình. Tất cả điều đó có thể thực hiện được và bởi vì người ta có thể làm được,
cho nên nó trở thành một nghĩa vụ”[48].
Những biến đổi sâu xa trong thế giới lao động và các mô
hình sản xuất cho thấy quan điểm duy ý thức hệ, duy kinh tế và duy vật đã bị
vượt qua. Chưa bao giờ người lao động phải đối diện với nhiều thách đố như hiên
nay, nhưng cũng chưa bao giờ “chiều kích chủ quan” hay “vai trò của
chủ thể” lao động được đề cao như ở thời đại chúng ta. Thật vậy, đề
cập đến vai trò chủ động của tư bản nhân văn trong nền kinh tế
đương đại, tức là đề cao phẩm chất và vai trò của người lao động. Yếu tố quyết
định của giai đoạn đổi thay đầy khó khăn và bất trắc này vẫn là con người. Cho
nên, chính con người sẽ và phải tìm ra những giải đáp thích hợp cho đời mình
cũng như cho thế giới.
[3] Trong “Thánh Lễ trước vũ trụ ” Chardin
đã diễn tả một cách thật sâu sắc ý nghĩa sâu thẳm của lao động con
người: ”Một lần nữa, lạy Chúa … trên cao nguyên khô cằn của châu Á, con
chẳng có bánh, rượu và ngay cả bàn thờ, con nâng tâm hồn lên, vượt lên trên mọi
biểu tượng, để vươn tới Đấng Quyền Năng Vĩnh Cửu. Và con linh mục của Ngài, con
sẽ dâng lên Ngài, trên bàn thờ của Trái đất trải rộng, lao động và nỗi nhọc
nhằn của Thế giới… ”.
[11] Adam Smith cho rằng lao động không những là
nguồn đích thực tạo ra của cải của một nước, mà còn là “thước đo thực tế đối
với giá trị trao đổi của mọi thứ hàng hóa”, xem Của cải của các dân tộc, NXB Giáo dục, 1997.
[29] Ibidem, 14. Phải chăng “cơ cấu trung
gian” mà Đức Gioan Phaolô II đề cập ở đây là một tên gọi khác của “xã
hội dân sự”?
[31] Nhiều tác giả đã cẩn thận trích dẫn chỉ
thị của thánh Phaolô: “Ai không chịu lao động thì đừng ăn” (2Tx. 3,10), xem Bộ
Giáo luật, số 2427.
[41] Gioan Phaolô II, Lao động của con người, 20. Theo Octogesima adveniens,14: Nghiệp đoàn “đại diện cho nhiều giới
thợ thuyền khác nhau, là cộng tác viên hợp pháp cho việc phát triển kinh tế của
xã hội và góp phần triển khai ý nghĩa trách nhiệm của giới thợ thuyền đối với
việc thực hiện công thiện công ích”.
[44] Trong cuốn “Thế giới phẳng. Tóm lược lịch
sử thế giới thế kỷ 21”,(NXB Trẻ, 2006), Thomas L. Friedman đưa ra rất nhiều
dẫn chứng về quá trình làm phẳng thế giới. Xem thêm Chiếc Lexus và cây Ôliu, NXb Khoa hoc Xã hội, 2005.
[45] Nhiều người
dịch từ “Human Capital”, là vốn con người. Thiết nghĩ
dịch như vậy là chưa sát với nội dung và ý nghĩa của nó. Chúng tôi đề nghị nên
dịch là tư bản nhân văn, vì trong thời đại hôm nay, con người chỉ trở
thành vốn quý khi được đào tài, có văn hóa, kỹ năng, sáng tạo.
[46] Charles
Wheelan, Đô-la hay lá nho?, Thanh Hương, Bích Ngọc dịch, NXb Lao động- Xã
hội, 2008, 188.
[48] Gioan Phaolô II, Bài giảng trong Thánh Lễ Năm Hồng ân của người lao động (1-5-2000), trong Insegnamenti di Giovanni
Paolo II, XXIII, 1 (2000) 717.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét