Trang

Thứ Năm, 12 tháng 4, 2012

17- LAO ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI


Lao động xuất hiện với con người và đóng vai trò quan trọng trong lịch sử nhân loại. Những xung đột chung quanh vấn đề lao động cũng là một trong những xung đột gay gắt, bi thảm và độc ác nhất suốt dọc lịch sử. Thực trạng đau thương này được trình bày trong nhiều nghiên cứu lịch sử, kinh tế, xã hội, đạo đức, văn chương, cũng như trong ca dao tục ngữ của nhiều dân tộc.

Theo thuật ngữ chuyên môn, lao động ám chỉ việc sử dụng năng lực của con người để biến đổi tài nguyên thiên nhiên nhằm tạo ra của cải, hàng hóa hay dịch vụ. Nhưng lao động là một vấn đề rộng lớn và phức tạp hơn nhiều. Người ta có thể nhìn lao động dưới nhiều góc độ và theo nhiều quan điểm khác nhau: chính trị, xã hội, kinh tế, phát triển, luân lý, tâm lý, tôn giáo, nhân quyền… Những dòng dưới đây chỉ muốn giới thiệu lao động của con người theo quan điểm Giáo huấn xã hội của Công giáo, nghĩa là từ quan điểm thần học luân lý xã hội. Ở đây, “lao động được xem là vấn đề của con người và nằm ở trung tâm vấn đề xã hội”[1]
17.1. Khái niệm về lao động
Giáo huấn xã hội của Công giáo thực sự khởi đi từ mối quan tâm đặc biệt đối với “vấn đề lao động” trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghệ lần I. Ngay trong những số đầu tiên, thông điệp “Rerum Novarum” đã giới thiệu cho chúng ta một bức tranh ảm đạm về xã hội đương thời: “Khắp nơi con người hoang mang và âu lo đợi chờ. Điều đó cho thấy vấn đề này liên hệ đến nhiều vấn đề quan trọng, đồng thời gây nhiều thao thức, trăn trở cho các vị thông thái, các bậc hiền nhân, cũng như cho các cuộc hội họp của dân chúng, các luật gia sắc sảo và các nhà cầm quyền. Dường như không còn vấn đề nào làm xáo trộn tâm trí con người như vấn đề này”[2].
Trong thông điệp “Quadragesimo anno” (1931) Đức Piô XI tiếp tục kiếm tìm những giải pháp mới cho cùng một“vấn đề lao động”. Tuy nhiên, phải đợi đến trung tuần thế kỷ XX, nhờ cố gắng của nhiều tư tưởng gia Công giáo, đặc biệt Teilhard de Chardin, S.J[3], Dominique Chenu, O.P. và L. Lebret, O.P., mới hình thành một quan niệm thần học về lao động. Trong một quyển sách nhỏ mang tựa đề “Tiến tới một thần học lao động”, Chenu thú nhận rằng “chắc chắn chúng ta đã có một luân lý về lao động, vài năm gần đây thậm chí đã có một nền thần bí về lao động, nhưng chưa có (…) một thần học lao động”[4], nghĩa là một quan điểm thần học nhìn lao động như một trong những thành phần thiết yếu nhờ đó con người biến đổi thiên nhiên, kiến tạo thế giới và xây dựng chính lịch sử của riêng mình.
Tư tưởng thần học của Chenu đã giúp người Công giáo vượt qua quan niệm tiêu cực cho rằng lao động đích thị là hình phạt do tội nguyên tổ, để tái khám phá giá trị nhân bản và ý nghĩa cứu độ của lao động. Đối với ông, “lao động là yếu tố của nhân bản hóa (humanisation) khi trở thành trụ cột của xã hội hóa (socialisation) nhờ đó nhân loại vượt qua một giai đoạn quyết định trong hành trình tập thể”[5].
Đức Gioan XXIII ghi nhận khuynh hướng thời đại đề cao việc thủ đắc kiến thức, có nghành nghề chuyên môn và có thu nhập do lao động hơn là chỉ sống nhờ sở hữu tài sản. “Thái độ này phù hợp với đặc điểm tự nhiên của lao động. Vì phát xuất trực tiếp từ nhân vị, lao động phải chiếm vị thế ưu tiên trên việc chiếm hữu các tài sản vật chất, là những gì do bản chất của chúng chỉ là phương tiện. Một số người coi đây như một bằng chứng tiến bộ của nhân loại”[6].
Trước những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự kiện con người không ngừng nới rộng sự thống trị trên thiên nhiên, Công đồng Vatican II tiếp tục nêu câu hỏi về ý nghĩa và giá trị của lao động. Công đồng nhìn nhận rằng “tất cả nỗ lực vĩ đại, trải dài qua các thế kỷ, nhờ đó con người cải thiện điều kiện sống cho phù hợp với ý định của Thiên Chúa. Thật vậy, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người đã lãnh nhận sứ mệnh chinh phục Trái đất, cùng với tất cả những gì chứa đựng trong đó”. Các Kitô hữu không đối lập tài năng và công trình của con người với quyền năng của Thiên Chúa, cũng chẳng coi thụ tạo có lý trí như địch thủ của Đấng Tạo Hóa, trái lại xác tín rằng “những thành công của nhân loại là biểu hiệu sự vinh quang của Thiên Chúa và là kết quả ý định khôn lường của Người”[7].
Từ quan điểm thần học mới về tạo dựng và cứu độ, Công đồng xác quyết giá trị tích cực của lao động: “Thông thường, nhờ lao động, con người đảm bảo nhu cầu sinh tồn cho bản thân và cho gia đình, liên kết với các anh chị em và phục vụ họ, có thể thực hiện công tác bác ái đích thực và góp phần kiện toàn công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Hơn nữa, chúng ta biết rằng, với việc dâng hiến lao động của mình cho Thiên Chúa, con người tham dự vào chính công cuộc cứu độ của Đức Kitô, Đấng đã đem đến cho lao động một giá trị tuyệt vời khi Người lao động bằng chính đôi tay của mình tại Nazareth”[8].
Đức Gioan Phaolô II tiếp nối luồng tư tưởng thần học ở trên và đã cống hiến cho “thần học lao động” những đóng góp rất độc đáo. Theo ngài, “danh từ lao động bao gồm tất cả mọi hoạt động do con người thực hiện dưới bất cứ hình thức và hoàn cảnh nào. Nói cách khác, lao động diễn tả tất cả các hoạt động muôn hình vạn trạng mà con người có khả năng và được hoạch định để thực hiện do chính bản tính nhân loại. Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa trong thế giới hữu hình và được chỉ định làm chủ Trái đất trong thế giới ấy, do đó ngay từ khởi thủy con người đã được mời gọi để lao độngLao động trở thành một trong những đặc tính phân biệt con người với tất cả các tạo vật khác” [9]. Con vật không lao động theo nghĩa chặt, bởi vì hoạt động của chúng luôn gắn chặt với bản năng và nhu cầu sinh tồn. Càng không thể áp dụng quan niệm “lao động” này cho máy móc và các phương tiện sản xuất khác. “Chỉ duy con người có khả năng lao động. Chỉ có con người mới thực hiện trọn vẹn lao động và nhờ lao động thể hiện sự hiện hữu của mình trên Trái đất”[10].
Suốt dọc lịch sử nhân loại, chính lao động đã là nguồn tạo ra của cải[11], đồng thời là công cụ khống chế thiên nhiên, biến đổi thế giới và giải quyết tình trạng nghèo đói. Nhờ lao động con người nhân hóa thiên nhiên, cũng như biến đổi xã hội, làm cho chúng mỗi ngày đẹp và thân thiện với con người hơn. Đức Gioan Phaolô II gọi đây là chiều kích khách quan của lao động hay vai trò của kỹ thuật chuyên môn. Thật vậy, tính nhân văn phong phú, đa dạng và độc đáo trong tiến trình “chế ngự Trái đất”, kể từ buổi sơ khai, ngang qua giai đoạn nông nghiệp, cho đến nền kinh tế tri thức hôm nay, làm nổi bật giá trị và ý nghĩa lao động của con người.
“Khi nhờ lao động để chế ngự Trái đất và củng cố uy quyền của mình trên thế giới hữu hình, thì trong mỗi trường hợp và trong mỗi giai đoạn của tiến trình ấy, con người luôn nằm trên định hướng nguyên thủy của Đấng Tạo Hóa (…). Đây là một tiến trình phổ quát: bao gồm tất cả mọi người, bao gồm mỗi thế hệ, mỗi giai đoạn phát triển kinh tế và văn hóa (…). Tất cả và mỗi người, theo một cách thức chính đáng và dưới muôn hình vạn trạng, đều tham dự vào tiến trình khổng lồ này, ngang qua đó, con người “chế ngự Trái đất” bằng chính lao động”[12].
17.2. Ý nghĩa nhân bản của lao động
Sâu xa hơn nữa, Đức Gioan Phaolô II đề nghị tìm hiểu lao động theo chiều kích chủ quan: chính con người là chủ thể của lao động. Bất kể nội dung khách quan của lao động là gì và cho dù khoa học kỹ thuật phát triển đến đâu đi chăng nữa, thì con người vẫn là chủ thể của lao động. Đây là một chủ thể có ý thức, tự do và nhân vị, nghĩa là một hữu thể có khả năng hành động một cách có kế hoạch và hợp lý, có khả năng tự quyết và hướng tới việc thực hiện bản thân.
Ở thời thượng cổ, người ta phân chia nhân loại thành từng nhóm dựa trên việc làm. Họ khinh miệt lao động cơ bắp và giao nó cho các nô lệ, vì cho rằng nó không xứng đáng với người tự do. Kitô giáo đã đem đến một thay đổi nền tảng về quan niệm lao động: “Khởi đi từ nội dung của sứ điệp Tin Mừng và, trên hết, từ sự kiện Đức Kitô, tuy là Thiên Chúa, đã nên giống chúng ta về mọi phương diện, đã dành phần lớn thời gian của cuộc đời dương thế để lao động chân tay nơi xưởng mộc. Sự kiện này, tự nó, là bằng chứng hùng hồn nhất để xây dựng “Tin Mừng về lao động”.Kể từ đó, căn bản để xác định giá trị của lao động nhân loại, không hệ tại nơi thể loại lao động được thực hiện, mà nơi sự kiện tác nhân đảm nhận lao động là một nhân vị. Nguồn gốc phẩm giá của lao động không nên tìm kiếm nơi chiều kích khách quan, mà nơi chiều kích chủ quan”[13].
Dựa trên quan điểm thần học đó, Đức Gioan Phaolô II quả quyết: “Căn bản đầu tiên để thẩm định giá trị của lao động là chính con người, chủ thể của lao động. Điều này nối kết trực tiếp với một hệ luận rất quan trọng mang tính đạo đức: thực sự con người được chỉ định và mời gọi lao động, nhưng trước hết lao động là “vì con người”, chứ không phải con người “vì lao động”. Với kết luận này, chúng ta công nhận sự ưu việt nơi ý nghĩa chủ quan của lao động đối với ý nghĩa khách quan”. Mặc dù lao động của con người có thể tạo nên một giá trị khách quan ít hoặc nhiều khác nhau, nhưng theo quan điểm của Giáo huấn xã hội của Giáo Hội “mỗi một lao động được đánh giá, trước hết,căn cứ trên phẩm giá của chính chủ thể lao động, nghĩa là giá trị của nhân vị, của người thực hiện lao động ấy”.Rốt cuộc, “mục đích của lao động”  bất kể là thứ lao động nào, ngay cả những lao động tầm thường và khiêm tốn nhất – vẫn “luôn luôn là chính con người”[14].
Cũng như mọi giá trị khác của cuộc đời, lao động cũng phải trả giá: vất vả và mệt nhọc luôn gắn liền với lao động của con người. Đây là một sự kiện tổng quát, mà mọi người đều cảm nghiệm và nhìn nhận. Nó không những bám chặt vào mồ hôi, nước mắt của người nông dân trên đồng ruộng và người công nhân trong xưởng thợ, mà còn trở thành thân quen với các chuyên viên kỹ thuật, các bác sĩ, các doanh nhân, giới trí thức, cũng như các bà nội trợ cực nhọc lo lắng việc nhà và vất vả giáo dục con cái. Tuy nhiên, theo diễn ngữ của thánh Tôma Aquinô, đây chính là một “cực nhọc hồng phúc” (bonum arduum)[15], bởi vì lao động mang trong mình một dấu ấn đặc biệt của con người và của nhân loại:chúng ta trở nên người hơn trong và nhờ lao động. Lao động trở thành một phương tiện ngang qua đó con người thực hiện vai trò “sáng tạo” để nhân hóa thiên nhiên và thể hiện sứ vụ làm người của mình.
Thông điệp “lao động của con người” đã thành công trong việc làm sáng tỏ ý nghĩa nhân bản của lao động: “Lao động mang dấu ấn riêng của con người và của nhân loại, dấu ấn của một con người hoạt động trong một cộng đồng nhân loại. Dấu ấn này xác định phẩm chất nội tại của con người và, trong một ý nghĩa nào đó, tạo nên bản tính con người”[16]. Nói rõ hơn, “nhờ lao động, con người không những biến đổi thiên nhiên để thỏa mãn các nhu cầu của mình, mà còn thực hiện chính mình như con người. Và, trong một nghĩa nào đó, “họ trở nên người hơn[17].
17.3. Ưu tiên của lao động trên tư bản
Nguyên tắc “ưu tiên của con người trên sự vật”, cũng như “ưu tiên của chủ thể lao động” trên “đối tượng lao động” sẽ dẫn đến một nguyên tắc căn bản khác đó là “ưu tiên của lao động” trên “tư bản”. Theo Đức Gioan Phaolô II, nguyên tắc này là một chân lý hiển nhiên phát xuất từ thực tại lịch sử, “liên quan trực tiếp với tiến trình sản xuất, qua đó lao động luôn luôn là nguyên nhân hiệu năng, trong khi “tư bản”, tức là toàn bộ các phương tiện sản xuất, chỉ là một phương tiện hay nguyên nhân dụng cụ”[18].
Dựa trên nguyên tắc nền tảng đó, thông điệp “lao động của con người” cống hiến một đóng góp rất độc đáo cho giáo huấn truyền thống về mối tương quan giữa lao động và tư bản. Thông điệp hiểu tư bản là “toàn bộ phương tiện, kết quả của gia tài lịch sử do lao động tạo nên” và đi đến kết luận hiển nhiên: “Toàn bộ các phương tiện sản xuất, mà trong một ý nghĩa nào đó được coi là đồng nghĩa với tư bản, đều phát xuất từ lao động và mang dấu ấn của lao động con người”[19]. Chúng ta có thể nói mạnh hơn: “Nếu đích thực tư bản được hiểu là toàn bộ phương tiện sản xuất cũng chính là sản phẩm của lao động từ nhiều thế hệ, như vậy phải công nhận rằng tư bản này được gia tăng không ngừng là nhờ lao động được thực hiện với toàn bộ những phương tiện sản xuất”[20].
Không ai phủ nhận rằng nhân loại mỗi ngày một giàu hơn, phát triển hơn và khoa học kỹ thuật ngày càng tối tân hơn. Tuy nhiên, nếu không có lao động vận hành, bảo trì và không ngừng tối tân hóa chúng, thì máy móc tối tân đến đâu đi chăng nữa cũng vô ích, nếu không muốn nói chỉ là đồ phế thải. Trong ý nghĩa đó, tư bản, xét như là tổng thể những phương tiện sản xuất, chỉ có thể được phát huy và trở thành hữu dụng cho nhân loại là nhờ lao động của nhiều người, trải qua biết bao nhiêu thế hệ.
Hệ luận tất nhiên là cần đặt lại mối tương quan sinh tử giữa lao động và tư bản. Nếu tư bản phát xuất do lao động và để phục vụ lao động thì “không thể chiếm hữu những phương tiện sản xuất này để chống lại lao động, cũng chẳng có thể chiếm hữu chúng để mà chiếm hữu, bởi vì lý do hợp lý duy nhất của hành động sở hữu, cho dù sở hữu riêng hay sở hữu chung hoặc tập thể … là để phục vụ lao động”[21]. Nói rõ hơn, Giáo Hội Công giáo không thể chấp nhận chủ nghĩa “tư bản cực đoan” và vẫn duy trì quan điểm truyền thống về “vận mệnh phổ quát của tài sản”.
Xung đột giữa “lao động”  “tư bản” hay đúng hơn giữa “thế giới tư bản” và “thế giới lao động” thực sự bùng nổ với cuộc cánh mạng công nghệ khi để kiếm sống hàng triệu người “phải bán sức lao động cho các chủ xí nghiệp và giới chủ nhân này, do sự thúc đẩy của nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận, chủ trương trả cho người lao động mức lương thấp bao nhiêu có thể. Ngoài ra, phải kể thêm những cách thế bóc lột khác, cùng với việc thiếu an toàn trong lao động, thiếu bảo hiểm sức khỏe và đời sống cho người thợ, cũng như gia đình”[22].
Với thời gian, xung đột này đã bùng nổ thành cuộc chiến ý thức hệ. Cuộc chiến gay gắt này được thể hiện rõ nét nhất giữa “chủ nghĩa tự do, được hiểu như ý thức hệ của chủ nghĩa tư bản, và chủ nghĩa Mácxít, được mệnh danh là “chủ nghĩa xã hội” hay “chủ nghĩa cộng sản”, tự xưng là phát ngôn viên của giai cấp thợ thuyền và ngay cả của tất cả giới vô sản thế giới. Và như thế, cuộc tranh chấp hiện thực giữa thế giới tư bản với thế giới lao động đã biến thành cuộc đấu tranh giai cấp, được tiến hành với những phương pháp không chỉ mang tính chất ý thức hệ, mà trước tiên có tính chính trị”[23].
Hôm nay, chúng ta đã có một quãng lùi tương đối để hiểu và đánh giá hai quan điểm đối kháng này. Nói một cách giản lược, hai chủ nghĩa này tuy đối kháng và có tham vọng triệt tiêu nhau, nhưng trên thực tế cùng thuộc về một “nền văn minh duy vật phiến diện, qua đó người ta quan trọng hóa chiều kích khách quan của lao động, trong khi chiều kích chủ quan – nghĩa là tất cả những gì liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến chủ thể lao động – thì lại bị hạ xuống hàng thứ yếu”[24].
Khỏi cần nhắc lại mọi người đều rõ chủ nghĩa tư bản coi lao động như “một thứ hàng hóa”. Mặc dù từ thời tư bản hoang dã cho đến hôm nay đã có rất nhiều biến đổi trong thế giới tư bản nhờ các cuộc canh tân tổ chức xí nghiệp, với sự xuất hiện các xí nghiệp đa quốc gia, các nghiệp đoàn và luật lao động. Tuy nhiên, trên tổng thể, chủ nghĩa tư bản vẫn chưa thoát ra khỏi những tiền đề của “chủ nghĩa kinh tế duy vật”, vẫn tiếp tục nhìn lao động như “một thứ hàng hóa đặc thù”.
Dưới cái nhìn của Đức Gioan Phaolô II, sai lầm căn bản của chủ nghĩa tư bản cực đoan là chủ trương “triệt để bảo vệ quyền tư hữu của phương tiện sản xuất như một “giáo điều” bất khả xâm phạm trong lãnh vực kinh tế. Nguyên tắc tôn trọng lao động đòi hỏi phải kiểm điểm quyền tư hữu đó cả về lý thuyết lẫn thực hành”[25]. Dĩ nhiên, chế độ tư bản đã biết tự điều chỉnh và sửa sai mô hình “tư bản hoang dã”, nhưng “những sai lầm của tư bản hoang dã vẫn có thể tái diễn ở bất cứ nơi nào  trong mức độ con người bị xếp ngang hàng với toàn thể phương tiện vật chất để sản xuất, nhưng không được đối xử theo phẩm giá đích thực của lao động, nghĩa là như chủ thể và tác giả, do đó, như mục đích của tất cả tiến trình sản xuất”[26].
Ở cực bên kia, chủ nghĩa tập thể hóa hay chủ nghĩa xã hội, tuy đối kháng triệt để với chủ nghĩa tư bản, cũng xây dựng trên cùng một quan niệm duy vật và duy kinh tế. Thật vậy, “chủ nghĩa duy vật, ngay cả dưới dạng thức biện chứng, cũng không có khả năng cung cấp những nền tảng đầy đủ và quyết định cho việc suy tư về lao động con người, theo đó quan niệm “ưu tiên của con người” trên sự vật có thể được nhìn nhận và hỗ trợ một cách thích đáng và vững chắc. Ngay trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, con người trước tiên không phải là chủ thể của lao động và nguyên nhân tác thành của tiến trình sản xuất, mà chỉ được đánh giá và hiểu như lệ thuộc vào vật chất, như một thứ “tổng hòa” những tương quan kinh tế và sản xuất thịnh hành ở một giai đoạn lịch sử nhất định nào đó”[27].
Như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa Mácxít đã biến xung đột hiện thực giữa thế giới lao động  thế giới tư bản thành cuộc đấu tranh giai cấp có hệ thống và bất khoan nhượng. Hơn thế nữa, chủ nghĩa Mácxít còn coi cuộc đấu tranh này như động lực của lịch sử và là “con đường duy nhất để loại trừ những bất công giai cấp hiện hữu trong xã hội và đồng thời tiêu diệt chính các giai cấp. Để thực hiện chương trình này họ cho rằng trước tiên phải “tập thể hóa” các phương tiện sản xuất để, qua việc chuyển giao các phương tiện này từ tư nhân sang tập thể, nhằm bảo vệ lao động con người khỏi bị bóc lột”. Suốt dọc một thế kỷ vừa qua, các nhóm và các đảng phái chính trị chịu ảnh hưởng của ý thức hệ Mácxít đã chủ trương sử dụng “nguyên tắc vô sản chuyên chính và gây ảnh hưởng dưới nhiều hình thức, ngay cả sử dụng áp lực cách mạng, nhằm nắm độc quyền cai trị trong mỗi một xã hội. Họ chủ trương loại trừ tận gốc hình thức tư hữu của các phương tiện sản xuất để thiết lập chế độ tập sản”[28].
Với kinh nghiệm bản thân về những ảo tưởng, khuyết điểm và vong thân hàm chứa trong chủ nghĩa Cộng sản hiện thực, Đức Gioan Phaolô II đã phê bình chủ nghĩa cộng sản khởi đi từ chính quan niệm xã hội hóa mà chủ nghĩa này chủ trương. Theo ngài, không thể xóa bỏ đối kháng và xung đột giữa thế giới lao động với thế giới tư bản bằng cách thẳng tay loại trừ hình thức tư hữu của các phương tiện sản xuất, vì khi tất cả các phương tiện sản xuất nằm trong tay Nhà nước, hay đúng hơn trong tay nhóm người lãnh đạo, không đương nhiên là quyền tư hữu đã được xã hội hóa. Trong rất nhiều trường hợp, chế độ tập thể hóa đã khai sinh những “tư bản đỏ”, độc quyền nắm giữ bộ máy quản trị và các phương tiện sản xuất. Vì thế, “chúng ta chỉ có thể gọi là “xã hội hóa” khi chủ thể tính của xã hội được bảo đảm, nghĩa là nếu mỗi người, dựa trên lao động của mình, có đầy đủ tư cách để coi mình như “đồng sở hữu” trên công trường lao động rộng lớn trong đó mọi người cùng dấn thân. Một trong những con đường có thể sử dụng để đạt tới mục tiêu này là cố gắng liên kết lao động với quyền sở hữu vốn và hình thành những cơ cấu trung gian mang tính chất kinh tế, xã hội, văn hóa. Các cơ cấu này được hưởng một sự tự lập thực sự đối với chính quyền, đồng thời theo đuổi mục tiêu chuyên biệt bằng cách duy trì mối tương quan chặt chẽ, cộng tác chân thành và tuân thủ những yêu sách của công thiện công ích. Các cơ cấu trung gian này mang hình thức và bản chất của một cộng đồng sinh động. Như vậy, các thành viên của cộng đồng sẽ được đối xử như nhân vị và được khuyến khích tích cực tham gia vào cuộc sống”[29].
Dĩ nhiên, không bao giờ có chuyện yêu cầu “chủ nghĩa xã hội” trở thành “chủ nghĩa tư bản”. Đức Gioan Phaolô II nêu lên một đề xuất khác căn cơ hơn: yêu cầu XHCN duyệt xét lại nền tảng lý thuyết và thực hành của mình, đồng thời làm sao thiết lập một “xã hội dân sự” sinh động, có thực quyền và thực chất, trong đó có giải pháp mới cho những xung đột cố hữu giữa thế giới lao động và thế giới tư bản. Yêu sách “gạn đục khơi trong” này cũng được đặt ra cho chủ nghĩa tư bản: Không cần phải biến thành chủ nghĩa xã hội, nhưng cần nghiêm chỉnh xem lại mối tương quan với thế giới lao động, nhất là cần kiểm tra lại quan niệm “giáo điều” về tư hữu.
Thông điệp “Lao động của con người” đề nghị một giải pháp khác. Đây là một giải pháp xây dựng trên nguyên tắc đạo đức về “ưu tiên của con người” trên sự vật và “ưu tiên của lao động” trên tư bản. Nguyên tắc này là “một định đề thuộc lãnh vực luân lý xã hội. Nhưng nó có tầm quan trọng căn bản đối với hệ thống xây dựng trên quyền tư hữu của các phương tiện sản xuất, cũng như trong hệ thống mà quyền tư hữu đó bị hạn chế triệt để. Theo một ý nghĩa nào đó, lao động bất khả phân ly với tư bản và không chấp nhận bất cứ hình thức đối kháng nào, nghĩa là không chấp nhận việc tách rời và đối lập với các phương tiện sản xuất, một hệ quả của những tiền đề thuần túy kinh tế, đã đè nặng trên cuộc sống nhân loại suốt dọc mấy thế kỷ vừa qua. Khi con người sử dụng toàn bộ các phương tiện sản xuất để lao động, họ ước mong rằng thành quả của lao động hữu ích cho bản thân và cho người khác, đồng thời trong tiến trình lao động, họ có cơ hội xuất hiện như “đồng - trách nhiệm” và “đồng - tác giả” trong công tác lao động mà họ phụ trách”[30].
Thông điệp “Lao động của con người” ban hành năm 1981. Dù mới vỏn vẹn chưa đầy 20 năm, nhưng lịch sử đã mấy lần sang trang! Tuy nhiên, hiện tượng Toàn cầu hóa, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và nền kinh tế tri thức hôm nay dường như đang củng cố cho nhận định và đề xuất của thông điệp.
17.4- Bổn phận và quyền lợi đối với lao động
Giáo huấn xã hội của Công giáo luôn nhấn mạnh đến nghĩa vụ lao động và trình bày những lý do căn bản để biện minh cho nghĩa vụ này: mỗi người phải lao động để nuôi sống bản thân[31], để chu cấp cho gia đình và để góp phần vào việc phát triển xã hội. Triệt để hơn, như chúng ta đã thấy, chính lao động giúp con người làm người hơn và cộng tác vào chương trình sáng tạo, cũng như cứu độ của Thiên Chúa.
17.4-1- Qui tắc đạo đức
Công đồng Vatican II tuyên bố: “Mỗi người có bổn phận lao động một cách cần mẫn, cũng như có quyền có việc làm. Xã hội có nhiệm vụ, tùy theo hoàn cảnh riêng biệt, giúp các công dân tìm được công ăn việc làm”[32]. Vấn đề gai góc nằm ở chỗ là làm sao kiến tạo được một cơ cấu kinh tế – chính trị tôn trọng quyền lao động của các công dân và đủ khả năng tạo nên việc làm cho mọi người? Mặc dù việc thực hiện quyền lao động lệ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện văn hóa, cũng như kinh tế, xã hội, chính trị, nhưng ít nhất cần tuân thủ những đòi hỏi đạo đức sau đây:
a)- Không ai được quyền hưởng lợi nhuận, bất chấp quyền lao động và hậu quả mất việc làm của những người khác. Trong chế độ tư bản, chẳng hạn, không thể chỉ nghĩ đến lợi nhuận, mà chẳng quan tâm đến việc tạo thêm việc làm. Ngoài ra, cần lưu ý là trong một số trường hợp, sự kiện một người đảm nhiệm đồng thời nhiều việc làm có thể là một biểu hiệu tính năng động của nền kinh tế mở, nhưng rất có thể cũng cho thấy “một lỗi cấu trúc” nào đó của một nền kinh tế. Phải chăng vì mức lương quá thấp hay vì việc làm không ổn định nên một số người phải làm nhiều việc mới đủ sống, trong khi đó có những người khác lại không có việc làm?
b)- Nhà nước cần đặc biệt quan tâm đến hiện tượng thất nghiệp và cố gắng giải quyết “căn bệnh hiểm nghèo” đang lây truyền trong nhiều nước. Trước hết, thất nghiệp, nhất là thấp nghiệp kéo dài, là “một tai họa và khi xảy ra trên một quy mô rộng lớn, sẽ trở thành thảm trạng xã hội. Vấn đề trở nên đặc biệt đau lòng khi đa số nạn nhân là giới trẻ, sau khi được chuẩn bị qua đào tạo thích hợp về văn hóa, kỹ thuật và nghề nghiệp, lại không tìm được việc làm và cảm thấy thất vọng vì không có việc làm như lòng mong ước để đảm nhận phần trách nhiệm của mình trong công cuộc phát triển kinh tế và xã hội của cộng đồng”[33].
Để đối phó với nạn thất nghiệp và đảm bảo công ăn việc làm cho mỗi người, trước hết cần cải tổ chương trình giáo dục cho phù hợp với nhu cầu thời đại. Tiếp đến, cần sự hỗ trợ của các tổ chức và cơ quan quốc tế. Chính các hiệp ước hay thỏa hiệp quốc tế giúp giải quyết vấn đề lao động một cách hữu hiệu nhất và làm giảm thiểu sự chênh lệch về mức sống của người lao động trên thế giới hôm nay.
c)- Quyền có việc làm thường nối kết với vấn đề di dân. Trong nhiều trường hợp, đây là một hình thức để nhìn nhận và bảo đảm quyền lao động. “Cần cố gắng tránh mọi hình thức phân biệt đối xử về lương bổng hay điều kiện làm việc đối với các công nhân đến từ nước khác hay vùng khác hiện đang góp phần vào công cuộc phát triển một nước hay một miền. Hơn nữa, mọi thành phần xã hội, đặc biệt nhà cầm quyền, phải đối xử với họ như những nhân vị, chứ không phải chỉ là những dụng cụ sản xuất: tạo điều kiện để họ có thể đoàn tụ gia đình và giúp đỡ họ kiếm được chỗ ở thích hợp”. Tuy nhiên, giải pháp lý tưởng vẫn là làm sao đưa vốn, công nghệ và “tạo việc làm ngay tại quê quán của họ”[34].
Trên thực tế người di dân đã phải đảm nhận những công việc nhọc nhằn và điều kiện làm việc tồi tệ nhất, nhưng họ lại phận đồng lương rẻ mạt và bị bạc đãi nhất. Đức Phaolô VI yêu cầu một bộ luật thích hợp về lao động nhập cư: “Phải cấp tốc vượt qua quốc gia chủ nghĩa hẹp hòi đối với người lao động nhập cư để tạo một quy chế công nhận quyền được di trú, tạo thuận lợi cho việc hội nhập, tạo điều kiện giúp họ thăng tiến nghề nghiệp và có chỗ ở tương xứng, để có thể đoàn tụ gia đình”[35].
17.4.2- Vấn đề lương bổng
Ngay ở cuối thế kỷ XIX, Đức Leô XIII nhìn nhận rằng khi cho người khác mượn sức lao động hay kỹ năng, người lao động có “thực quyền không những để đòi được trả lương, mà còn được sử dụng nó theo ý muốn của mình”[36]. Đức Piô XI cho rằng mức lương này “phải đủ để nuôi sống bản thân và gia đình”. Theo thông điệp “Mẹ và Thầy”, không thể hoàn toàn phó mặc cho quy luật thị trường hay các chủ nhân ông tự do xác định mức lương, mà cần quy định một mức lương hợp lý cho phép người lao động duy trì mức sống xứng đáng với nhân phẩm và có khả năng chu toàn trách nhiệm với gia đình. Vậy, để qui định mức lương cần lưu ý đến những điểm sau đây: Năng lực sản xuất của từng người, tình trạng kinh tế của xí nghiệp, những đòi hỏi công ích của mỗi nước[37].
Đức Gioan Phaolô II xem lương bổng trả cho người lao động như một thứ hàn thủy biểu để đo lường mức độ công bằng và đạo đức của một chế độ. Không trả lương hay trả lương không đúng hạn hoặc không tương xứng là vi phạm công bằng. “Trong mỗi trường hợp, đồng lương tương xứng trở nên một xác minh cụ thể về công bằng của tất cả hệ thống kinh tế – xã hội và cũng như về sự vận hành hợp lý của nó. Dĩ nhiên, đây không phải là xác minh duy nhất, nhưng là một xác minh quan trọng và có thể nói là xác minh chủ chốt”[38].
17.4.3-   Đình công
Khi xảy ra những tranh chấp về kinh tế – xã hội, Giáo huấn xã hội của Công giáo yêu cầu ưu tiên tìm những giải pháp ôn hòa qua cuộc đối thoại chân thành giữa các nhóm liên hệ để tránh những thiệt hại nặng nề cho xí nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Khi tất cả các phương pháp đó trở thành vô hiệu thì “đình công là phương tiện cần thiết(…) để bênh vực quyền lợi và đạt được nguyện vọng chính đáng của người lao động”[39].
Đây là “một loại tối hậu thư” nhằm gây áp lực với chủ nhân, với Nhà nước hay công luận để quyền lợi và yêu sách chính đáng của người lao động được nhìn nhận. Nhưng đình công sẽ trở thành “bất hợp pháp về mặt luân lý khi kèm theo bạo động, hoặc hơn thế nữa, nếu được sử dụng để nhằm những mục tiêu không trực tiếp liên hệ đến các điều kiện làm việc hoặc những mục tiêu nghịch với công ích”[40].
17.4.4- Vai trò của nghiệp đoàn
Nghiệp đoàn đóng vai trò quan trọng trong nối kết và bảo vệ quyền lợi sinh tử của người lao động. Người lao động có quyền thành lập hay gia nhập các nghiệp đoàn. “Trách nhiệm của nghiệp đoàn là bảo vệ quyền lợi hiện thực của người lao động trong tất cả mọi lãnh vực nơi mà quyền lợi của họ bị đe dọa. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy các tổ chức thuộc loại này là một nhân tố rất cần thiết cho đời sống xã hội, đặc biệt trong các xã hội công nghiệp hóa tân tiến”[41].
Đối với Giáo huấn xã hội của Giáo Hội, nghiệp đoàn phải là những tác nhân đẩy mạnh cuộc tranh đấu cho công bằng xã hội, chứ không thể trở thành phản ảnh thuần túy của một cuộc đấu tranh giai cấp. “Chắc chắn, nghiệp đoàn là phát ngôn nhân của cuộc tranh đấu cho công bằng xã hội, cho quyền lợi chính đáng của người lao động thuộc ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, cuộc tranh đấu này phải được hiểu như một dấn thân bình thường nhằm đạt tới thiện ích chính đáng. Ở đây, thiện ích đó tương ứng với nhu cầu và công lao của những người lao động kết hợp với nhau theo ngành nghề. Nhưng nó không phải là một cuộc đấu tranh chống lại người khác[42].
Muốn đẩy mạnh xản xuất và đưa đất nước đi lên, lao động và tư bản bó buộc phải hợp lực với nhau. Ngay cả trong những trường hợp mà cuộc đấu tranh cho lao động  mang tính chất đối kháng với những người khác hay nhóm khác thì mục đích của đối kháng này là nhằm thiết lập công bằng xã hội, chứ không thể chủ trương tiêu diệt lẫn nhau.
Có những lần nghiệp đoàn phải đấu tranh rất gắt gao mới có thể sửa chữa một số khuyết tật cố hữu của chủ nghĩa tư bản và để thực hiện công tác này nghiệp đoàn cần am hiểu lãnh vực chính trị. Tuy nhiên, “vai trò của các nghiệp đoàn không phải là “làm chính trị” theo nghĩa thông dụng mà ngày nay người ta thường hiểu. Các nghiệp đoàn không mang tính chất “đảng phái chính trị” đấu tranh vì quyền lực và không bao giờ được tùng phục các quyết định của các đảng phái, cũng như liên hệ quá chặt chẽ với họ. Thực vậy, nếu các nghiệp đoàn làm như thế, thì dễ dàng xa rời vai trò đặc biệt của mình là bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động trong khung cảnh lợi ích chung của toàn thể xã hội. Hành động ngược lại sẽ trở thành một dụng cụ gây áp lực để thực hiện các mục đích khác”[43].
17.5- Biến chuyển đầy hy vọng và thật bi thảm!
Kể từ cuộc khủng hoảng năng lượng vào cuối thập niên 70’ của thế kỷ XX, mô hình Nhà nước – Quốc gia, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, các hệ thống an sinh xã hội…  bắt đầu suy thoái. Hệ thống hưu dưỡng gặp khó khăn do số người lao động giảm, trong khi đó số lượng người hưu trí luôn tăng cao vì tuổi thọ trung bình mỗi ngày một cao hơn.
Một giai đoạn mới đang hình thành. Có người gọi nó là hiện đại hóa II hay hậu hiện đại. Có người khác nghĩ đến thời toàn cầu hóa hay nền văn minh tri thức. Mặc dù tên gọi chưa thống nhất, nhưng một điều chắc chắn: thế giới đã đổi thay và đang sang trang. Nhân loại đang đối diện với một giai đoạn biến đổi đầy cam go, được đặc trưng bởi vấn đề môi sinh, giảm thiểu lao động có lương, đề cao vai trò của kiến thức và sáng tạo, gia tăng cá nhân chủ nghĩa, cách mạng thông tin đẩy mạnh toàn cầu hóa về xã hội – chính trị – kinh tế – văn hóa…
Dưới đây là vài nét chấm phá về những biến đổi hiện nay để nhận diện và suy nghĩ về những thách đố mà thời đại đang đặt ra cho lao động của con người.
17.5.1- Lao động trước biến đổi kỹ thuật
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta chứng kiến hiện tượng kinh tế tăng trưởng mạnh, nhưng công ăn việc làm không tăng tương xứng. Lý do đơn giản là tăng trưởng kinh tế hiện nay lệ thuộc nhiều ở canh tân kỹ thuật, kỹ năng sáng tạo và dịch vụ, chứ không phải do lao động phổ thông. Thật vậy, kỹ thuật đương đại đã biến đổi từ nền tảng mô hình sản xuất, hệ thống tổ chức, cũng như vai trò của các yếu tố sản xuất.
Người ta nhận thấy ba biến đổi nền tảng. Cái đổi đời thứ nhất liên quan đến mối tương quan giữa kỹ thuật và kinh tế. Trong quá khứ, của cải và sản phẩm được sản xuất ra lệ thuộc chặt chẽ vào số lượng lao động mà người ta đã sử dụng. Hôm nay và hơn nữa trong tương lai, chúng lệ thuộc ở chất lượng lao động, chứ không còn lệ thuộc ở số lượng lao động như xưa. Thật vậy, biến đổi kỹ thuật làm cho việc tăng sản lượng lệ thuộc hoàn toàn ở phẩm chất lao động cao và giảm thiểu tới mức tối đa số lượng lao động phổ thông, cũng như nguyên liệu thiên nhiên. Giá trị của các sản phẩm cao cấp lệ thuộc rất nhiều ở nghiên cứu khoa học, thiết kế mẫu mã, quảng cáo, tiếp thị, phục vụ khác hàng… hơn là khâu sản xuất và nguyên liệu thiên nhiên.
Nói chung, các nhà dự phóng tương lai đồng ý rằng càng ngày chúng ta sẽ cần ít lực lượng lao động hơn để sản xuất tất cả của cải mà nhân loại cần thiết. Bất chấp tính khả thi của những dự đoán nói trên, điều mà không ai có thể phủ nhận là canh tân kỹ thuật và toàn cầu hóa kinh tế đã tạo nên những biến đổi sâu rộng trong lãnh vực lao động.
17.5.2- Lao động nông nghiệp
Tại các nước phát triển, trong mấy thập niên vừa qua, sản phẩm nông nghiệp tăng khoảng 85%, nhưng tỉ lệ lao động trong nông nghiệp cứ giảm dần xuống khoảng 3-5% hiện nay. Tại Anh Quốc, chẳng hạn, từ năm 1780 đến 1988, người ta ghi nhận một sự giảm sút khổng lồ về lực lượng lao động trong nông nghiệp: từ 50% giảm xuống chỉ còn 2,2%. Trong khi đó năng xuất lao động lại tăng 68 lần. Như vậy, lực lượng lao động trước hết đã di chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp, rồi sau đó từ công nghiệp sang công nghệ mũi nhọn và dịch vụ.
Chúng ta gặp thấy tiến trình chuyển đổi lao động này tại tất cả các nước kỹ nghệ hóa. Ở khắp nơi, tự động hóa và “robot hóa” đang biến đổi cơ cấu kỹ nghệ và tổ chức lao động. Một nước càng phát triển thì tiến trình vi tính hóa, tự động hóa và “robot hóa” càng cao. Do đó, càng ngày càng cần nhiều hơn những lao động chuyên nghiệp cao. Họ đang trở thành “trọng điểm” của sản xuất, trong khi thành phần lao động phổ thông không còn giữ vai trò chủ chốt như xưa nữa. Công trình xây dựng đường hầm ngang qua biển Manche được coi là một trong những dự án lớn nhất ở châu Âu thời hậu chiến. Nhưng vào giai đoạn cao điểm nhất chỉ sử dụng 2000 nhân công, trong số đó 50% là kỹ sư.
Nói cách khác, tiến trình kỹ nghệ hóa, vi tính hóa, tri thức hóa, robot hóa… ngày càng đòi hỏi các lao động có chuyên môn và sáng tạo. Sự lớn mạnh của dịch vụ trong nền kinh tế đương đại càng cho thấy rõ hơn vai trò quan trọng của ngành nghề chuyên môn. Người lao động phổ thông ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn để tìm được việc làm tương xứng và phải chấp nhận sự kiện đồng lương của mình mỗi ngày một giảm sút so với lao động chuyên môn cao.
17.5.3- Công nghệ sinh học
Ngành công nghệ sinh học, nghĩa là những phương thức sản xuất công nghiệp sử dụng những vi sinh vật và các quá trình sinh học của chúng, đã tận dụng những thành quả của sinh học về biến đổi gen để tạo nên những “sản phẩm độc đáo”. Thực ra, từ thuở xa xưa người ta đã sử dụng kỹ thuật này để sản xuất rượu bằng cách làm cho nho lên men hoặc chế tạo pho mát (fromage) bằng cách làm đông đặc sữa, tuy nhiên công nghệ sinh học hôm nay còn muốn biến đổi gen của các sinh vật để tạo nên một sinh vật khác. Kể từ khi con cừu Dolly xuất hiện, con người đang đào sâu và nhân rộng sự biến đổi thần kỳ này, để trở thành một “tạo hóa thứ hai”, với tham vọng tạo nên các loại sự sống mới với đặc tính gen chưa từng có.
Cũng như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học đang đóng vai trò “một thứ chìa khóa” để biến đổi tận gốc rễ một loạt công nghệ và dịch vụ. Nếu thế kỷ XX đánh dấu bởi cuộc cách mạng công nghệ thông tin, thì tiền bán thế kỷ XXI rất có thể sẽ mang dấu ấn của cách mạng công nghệ sinh học.
17.5.4-   Tư bản nhân văn
Với sự phổ biến của điện thư, điện thoại di động, máy tính cá nhân, vệ tinh, cáp quang, Internet, mạng toàn cầu (World Wide Web), bất cứ công việc nào cũng có thể chia nhỏ thành nhiều phần, rồi chuyển chúng đến nhiều nơi trên khắp thế giới. Khai sinh hiện tượng làm việc từ xa: Nhiều công việc được chuyển từ trung tâm kỹ nghệ đến những nơi xa xôi, nhưng việc làm lại hiệu quả, năng xuất cao và giá thành rẻ hơn. Tốc độ kinh hoàng của truyền thông và việc di chuyển dễ dàng hàng hóa đến mọi nơi trên thế giới cho phép các công ty liên quốc gia đặt nhà máy ở nhiều nơi: người ta có thể sản xuất một phần quan trọng của sản phẩm tại Mỹ, phần khác tại Singapore hay Đài Loan hoặc Việt Nam, rồi đóng lại thành sản phẩm tại một nơi khác và bán ra khắp thế giới[44].
Trong thời đại toàn cầu hóa, chất xám trở thành tấm hộ chiếu và tư bản nhân văn[45] đóng vai trò chủ động. Chính tư bản nhân văn đang xác định phẩm chất cũng như hiệu năng lao động của con người. Charles Wheelan giải thích: “Tư bản nhân văn là toàn bộ các kỹ năng của một cá nhân: học vấn, sự thông minh, uy tín, tính sáng tạo, kinh nghiệm làm việc, khí lực doanh nhân, và thậm chí cả khả năng ném một quả bóng rổ thật nhanh, mạnh và chính xác”[46]. Rồi cường điệu hơn, ông viết tiếp: “Ở Mỹ, có một bộ phận người dân nghèo là bởi vì họ không thể tìm được việc làm. Nhưng đây là một triệu chứng, chứ không phải là căn bệnh. Vấn đề cơ bản là do họ thiếu các kỹ năng (hay tư bản nhân văn). Tỉ lệ nghèo ở những học sinh bỏ học ngay từ cấp phổ thông ở đất nước chúng ta cao gấp 12 lần tỉ lệ nghèo ở những sinh viên tốt nghiệp đại học. Tại sao Ấn Độ lại là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới? Lý do chủ yếu là bởi vì 35% dân số nước này mù chữ (đã giảm so với mức gần 50% cách đây một thập kỷ) hoặc phải sống trong những điều kiện khiến họ không phát huy được tư bản nhân văn”[47].
17.5.5- Vận may và nguy cơ
Những biến đổi của toàn cầu hóa đang đặt ra rất nhiều vấn đề và thách đố cho thế giới lao động. Đã qua rồi cái thời: “Nhất nghệ tinh nhân thân vinh” hay cha truyền con nối. Cũng chẳng còn cái thế giới an bình: hầu như mọi người đều có việc làm. Nhân loại đang đối diện với một giai đoạn lao động đa dạng, đầy năng động và sáng tạo, nhưng cũng rất bấp bênh, lao đao và khốn khổ, vì tỉ lệ thất nghiệp cao, rất dễ bị mất việc làm, phải thường xuyên đào tạo lại hoặc chuyển sang lãnh vực khác. Lao động độc lập, lao động ngay tại nhà, lao động động trong các xí nghiệp gia đình hay xí nghiệp vừa và nhỏ có thể giới thiệu một kinh nghiệm mới về lao động, thân thiện, gần gũi và nhiều tính nhân văn hơn. Nhưng mặt trái của nó là nhiều khi điều kiện làm việc khắc nghiệt, lương thấp, thiếu sòng phẳng và bấp bênh.
Cũng như tất cả các biến cố quan trọng khác trong lịch sử nhân loại, các hiện tượng mới mẻ mà chúng tôi đã trình bày ở trên vừa là vận may, vừa là nguy cơ. Đối diện với thách đố này, Đức Gioan Phaolô II mời gọi người lao động sáng suốt tái xác quyết giá trị của lao động và kiếm tìm những hình thức liên đới mới: “Những thực tế mới mẻ như toàn cầu hóa tài chánh, kinh tế, thương mại và lao động đang tác động mạnh mẽ trên tiến trình sản xuất, nhưng không được xâm phạm đến phẩm giá và vị trí trung tâm của con người, cũng như tự do và dân chủ của các dân tộc. Hành động liên đới, thái độ dấn thân và khả năng điều khiển những biến đổi triệt để này nếu chưa đưa ra một giải pháp, thì chắc chắn cũng là một đảm bảo đạo đức cần thiết, bởi vì các cá nhân và các dân tộc không thể trở thành dụng cụ, nhưng luôn chủ động đối với tương lai của mình. Tất cả điều đó có thể thực hiện được và bởi vì người ta có thể làm được, cho nên nó trở thành một nghĩa vụ”[48].
Những biến đổi sâu xa trong thế giới lao động và các mô hình sản xuất cho thấy quan điểm duy ý thức hệ, duy kinh tế và duy vật đã bị vượt qua. Chưa bao giờ người lao động phải đối diện với nhiều thách đố như hiên nay, nhưng cũng chưa bao giờ “chiều kích chủ quan” hay “vai trò của chủ thể” lao động được đề cao như ở thời đại chúng ta. Thật vậy, đề cập đến vai trò chủ động của tư bản nhân văn trong nền kinh tế đương đại, tức là đề cao phẩm chất và vai trò của người lao động. Yếu tố quyết định của giai đoạn đổi thay đầy khó khăn và bất trắc này vẫn là con người. Cho nên, chính con người sẽ và phải tìm ra những giải đáp thích hợp cho đời mình cũng như cho thế giới.

 

[1] Gioan Phaolô II, Lao động của con người, 2.
[2] Leo XIII, Tân sự,1.
[3] Trong “Thánh Lễ trước vũ trụ ” Chardin đã diễn tả một cách thật sâu sắc ý nghĩa sâu thẳm của lao động con người: ”Một lần nữa, lạy Chúa … trên cao nguyên khô cằn của châu Á, con chẳng có bánh, rượu và ngay cả bàn thờ, con nâng tâm hồn lên, vượt lên trên mọi biểu tượng, để vươn tới Đấng Quyền Năng Vĩnh Cửu. Và con linh mục của Ngài, con sẽ dâng lên Ngài, trên bàn thờ của Trái đất trải rộng, lao động và nỗi nhọc nhằn của Thế giới… ”.
[4] D. Chenu, Pour une théologie du travail, Paris, 1955, 34.
[5] Ibidem, 22.
[6] Gioan XXIII, Mẹ và Thầy, 107.
[7] Vui mừng và Hy vọng. 34.
[8] Ibidem, 67.
[9] Gioan Phaolô II, Lao động của con người, lời phi lộ.
[10] Ibidem.
[11] Adam Smith cho rằng lao động không những là nguồn đích thực tạo ra của cải của một nước, mà còn là “thước đo thực tế đối với giá trị trao đổi của mọi thứ hàng hóa”, xem Của cải của các dân tộc, NXB Giáo dục, 1997.
[12] Gioan Phaolô II, Lao động của con người, 4.
[13] Lao động của con người, 6.
[14] Ibidem, 6.
[15] Tôma Aquino, Tổng luận thần học, I-II, q.40, a.1c.
[16] Gioan Phaolô II, Lao động của con người, lời phi lộ.
[17] Lao động của con người, 9.
[18] Ibidem, 12.
[19] Ibidem.
[20] Ibidem, 14.                                                           
[21] Ibidem
[22] Ibidem, 11.
[23] Ibidem.
[24] Ibidem, 7.
[25] Ibidem, 14.
[26] Ibidem, 7.
[27] Ibidem, 13.
[28] Ibidem, 11.
[29] Ibidem, 14. Phải chăng “cơ cấu trung gian” mà Đức Gioan Phaolô II đề cập ở đây là một tên gọi khác của “xã hội dân sự”?
[30] Ibidem, 15.
[31] Nhiều tác giả đã cẩn thận trích dẫn chỉ thị của thánh Phaolô: “Ai không chịu lao động thì đừng ăn” (2Tx. 3,10), xem Bộ Giáo luật, số 2427.
[32] Vatican II, Vui mừng và Hy vọng, 67.
[33] Gioan Phaolô II, Lavorem exercens, 18.
[34] Vatican II, Vui mừng và Hy vọng, 66.
[35] Phaolô VI, Octogesima adveniens, 17; Phát triển các Dân tộc, 69.
[36] Leo XIII, Tân sự, 3.
[37] Gioan XXIII, Mẹ và Thầy, 71.
[38] Gioan Phaolô II, Lao động của con người, 19.
[39] Vatican II, Vui mừng và Hy vọng, 68.
[40] Sách giáo lý của Hội thánh Công giáo, số 2435.
[41] Gioan Phaolô II, Lao động của con người, 20. Theo Octogesima adveniens,14: Nghiệp đoàn “đại diện cho nhiều giới thợ thuyền khác nhau, là cộng tác viên hợp pháp cho việc phát triển kinh tế của xã hội và góp phần triển khai ý nghĩa trách nhiệm của giới thợ thuyền đối với việc thực hiện công thiện công ích”.
[42] Lao động của con người, 20.
[43] Ibidem.
[44] Trong cuốn “Thế giới phẳng. Tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ 21”,(NXB Trẻ, 2006), Thomas L. Friedman đưa ra rất nhiều dẫn chứng về quá trình làm phẳng thế giới. Xem thêm Chiếc Lexus và cây Ôliu, NXb Khoa hoc Xã hội, 2005.
[45] Nhiều người dịch từ “Human Capital”, là vốn con người. Thiết nghĩ dịch như vậy là chưa sát với nội dung và ý nghĩa của nó. Chúng tôi đề nghị nên dịch là tư bản nhân văn, vì trong thời đại hôm nay, con người chỉ trở thành vốn quý khi được đào tài, có văn hóa, kỹ năng, sáng tạo.
[46] Charles Wheelan, Đô-la hay lá nho?, Thanh Hương, Bích Ngọc dịch, NXb Lao động- Xã hội, 2008, 188.
[47] Ibidem, 192.
[48] Gioan Phaolô II, Bài giảng trong Thánh Lễ Năm Hồng ân của người lao động (1-5-2000), trong Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XXIII, 1 (2000) 717.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét